Pages

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011

“Ổn định chính trị” hay chính trị độc tôn chai lỳ được dung dưỡng bằng điều 4 Hiến pháp?

Ổn định chính trị là gì? Nếu đánh từ này vào Google sẽ có hơn 1,5 triệu kết quả. Đây là một cụm từ không những đã gây ngộ nhận cho nhiều người dân mà còn là một thuật ngữ được một số chuyên gia và nhà phân tích kinh tế quốc tế có uy tín sử dụng để mô tả về những “cái được” ở các nền kinh tế đang chuyển đổi mà không chú ý đến các yếu tố tạo nên sự ổn định chính trị. Với những nước đang cố gắng duy trì chế độ độc tài chuyên chế thì cụm từ này cho phép họ trấn an dân chúng và cả nhà đầu tư ngoại quốc. Ở Việt Nam và một số quốc gia có thế chế chính trị tương đồng, chính quyền nhắc đến cụm từ này như để nói lên rằng, nước họ là một đất nước ổn định về chính trị và những ai đang đòi hỏi một điều gì khác, có thể làm xáo trộn nó là điều xấu và là điều có hại cho đất nước. Để các bạn có thể cắt nghĩa được điều này, chúng tôi xin được phép giới thiệu những phân tích và đưa ra những dẫn chứng cụ thể ở những góc độ khác nhau về một sự ổn định chính trị mà chính quyền nói tới liệu có đúng thực chất hay chỉ là cái giả tạo và như thế nào mới thực sự ổn định chính trị và một thể chế chính trị ổn định là yếu tố lòng tin quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước và mang lại lợi ích cho người dân.

Ổn định là một tính từ đi kèm danh từ để chỉ sự tốt, hợp lý, không biến đổi hay biến đổi không nhiều. Trong từ ổn định chính trị để nói lên một hệ thống, một thể chế tốt, hợp lý, được đa số người dân đồng tình, ủng hộ và bền vững theo thời gian. Về thực chất thì một thể chế chính trị được nhìn nhận là tốt thường đi cùng với mức độ dân chủ trong hệ thống của nó. Việc nhìn nhận một hệ thống chính trị tốt hay xấu, dân chủ cao hay thấp được xác định bằng sự tín nhiệm của đại đa số người dân trong điều kiện thông tin tự do hoàn toàn và được sự công nhận của cộng đồng quốc tế trong sự đảm bảo của việc thực thi đầy đủ các quy tắc và chuẩn mực quốc tế về các quyền lợi cá nhân trong đó có quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác mà các tổ chức quốc tế có uy tín đưa ra.

Nền chính trị ổn định thường không đồng nhất với việc ủng hộ một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nào đó từ phía dân chúng mà nó chính là sự ủng hộ tự nguyện cho một xu hướng chính trị hay một thể chế chính trị thông qua bầu cử dân chủ trong điều kiện người dân không bị sự ép buộc hoặc thiếu tự do thông tin. Điều này cũng nói lên những sơ suất của một số nhà hoạt động dân chủ khi nói đến “trưng cầu dân ý” hay “hỏi ý kiến” của dân trong lý lẽ của họ về tính chính danh về chính trị của hệ thống hoặc của một cá nhân lãnh đạo vì rằng, người dân ở những nước độc tài không có đủ thông tin cần thiết nếu không nói là gần như mù mờ, lơ mơ, thông tin thiếu trung thực, thiếu nhất quán, thiếu cả những luồng thông tin không chịu sự ràng buộc để có thể vạch rõ chân tướng những bản lý lịch dối trá, những bằng cấp chỉ để lòe bịp, những thủ đoạn mua quan bán chức, những sự bầu bán phía trong những bức tường kín, những sự cung phụng, ton hót nịnh bợ lẫn nhau, những trao đổi, mặc cả, chia chác chức quyền và vì vậy, những lựa chọn cho một “trưng cầu” hoàn toàn không thực sự là “dân ý” trong một cái nhìn chính xác về những nhà lãnh đạo của họ hay công việc điều hành của hệ thống chính trị trong điều kiện của sự trao đổi thông tin được tự do hoàn toàn.

Trong trường hợp Việt Nam, ĐCSVN hiện nay có 3,5 triệu đảng viên (có thông tin nói 2,7 triệu ĐV) trong số gần 90 triệu người dân. Các đảng viên gia nhập theo hình thức tự nguyện. Việc tham gia đảng CSVN hay không là quyền lợi chính trị của mỗi người dân. Người dân có thể tham gia hay không tham gia ĐCSVN vì họ nhận thấy, đảng phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu hay lý tưởng của họ và điều này là hoàn toàn tự nguyện.

Vì vậy, ĐCSVN không phải là một tổ chức đại diện cho quyền lợi chính trị của tất cả mọi người dân. Nếu trong một điều kiện bình thường, các cá nhân không tham gia ĐCSVN có thể lập ra hoặc tham gia một đảng phái khác phù hợp với mục tiêu của họ và phù hợp với quy định của hiến pháp, pháp luật và được đảm bảo về mặt tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do lập hội, hội họp. Vì vậy, về nhu cầu tự do tư tưởng và quyền lợi chính trị trong điều kiện không có sự bình đẳng thì những người không tham gia ĐCS không có tiếng nói đại diện trong một thiết chế chính trị – xã hội. Vì không có sự đại diện nên những tiếng nói của họ không được thể hiện trong một thiết chế chính trị – xã hội, điều này có nghĩa là những người đó đang bị tước đoạt quyền lợi chính trị của mình nhưng họ không dám lên tiếng đòi hỏi do bị cưỡng bức và nếu họ có ý muốn thành lập các tổ chức hay đảng phái đại diện cho quyền lợi chính trị của mình thì sẽ bị đàn áp, khủng bố, cưỡng bức hay bị bỏ tù.

Điều 4 Hiến pháp năm 1992 là điều duy nhất nói tới ĐCS và mặc định sự lãnh đạo của ĐCS và trong điều kiện không có bất kỳ một điều luật khác nhắc đến vai trò lãnh đạo xã hội của các tổ chức khác đã cho phép ĐCS sử dụng bộ máy an ninh khổng lồ của mình trấn áp không khoan nhượng những đòi hỏi về sự thành lập các tổ chức chính trị từ trong trứng nước của người dân cho dù họ cố gắng chứng minh là nó vô hại hay nó thể hiện được ý nguyện và là tổ chức đại diện cho quyền lợi của những tầng lớp trong xã hội khác nhau và điều này không bị các điều luật ngăn cản. Trích điều 4 hiến pháp 1992:

”Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Trong điều kiện một nền chính trị chịu sự áp đặt của một tổ chức, cá nhân hay một đảng phái nào đó thì nền chính trị đó không thể nói là ổn định. Ở đây, nền chính trị này chỉ có thể được coi là không có sự xáo trộn trong một giai đoạn nào đó chứ không có được cái “ổn”. Các chế độ độc tài như Marcos ở Philipines, Pinoche ở Chi Lê, Park Chung Hy ở Nam Hàn,v.v… trước đây áp dụng chế độ cai trị hà khắc và trừng trị những đảng phái hay cá nhân khác có manh nha trỗi dậy trong thời gian cầm quyền của nhà độc tài không phải là một sự ổn định chính trị. Tương tự, các thể chế độc tài CS (hay độc tài chuyên chế, độc tài toàn trị) như Bắc Hàn, Cu Ba, VN, TQ theo đường lối chuyên chế toàn trị độc tôn bằng một đảng phái và không cho phép các đảng phái khác tồn tại hoặc cầm quyền bằng sự duy trì quyền lực trong tay một đảng cũng không thể là một thể chế chính trị ổn định. Xa hơn nữa, thống chế Đức Quốc xã trong giai đoạn Hitler cầm quyền cũng không có sự xáo trộn về chính trị nhưng cũng không thể nói là một chế độ chính trị ổn định. Tất cả sự “ổn định” đó chỉ là cái giả tạo, chúng ta có thể gọi nôm na là “giả ổn định” mà để có được nó, sẽ phải sử dụng nhiều biện pháp cưỡng bức để đảm bảo rằng, cá nhân, tổ chức, đảng phái đang cai trị không bị đe doạ mất quyền kiểm soát hoặc quyền điều hành quốc gia.

Sự ổn định, nếu có, không chỉ thể hiện về hình thức bên ngoài mà sự ổn định phải hội đủ các yếu tố mà dù ở góc cạnh nào, chủ quan hay khách quan đều nhận thấy sự đảm bảo một sự bền vững có tính nội tại và nó thể hiện được nhu cầu không bị hạn chế về sự mở mang cho những đóng góp (nếu có) của những ý kiến, những luận cứ khoa học hay việc tham chiếu các nền chính trị dân chủ khác.

Một nền chính trị “giả ổn định” tương tự một gia đình mà người chồng luôn áp đặt cho người vợ một khuôn khổ mà không có sự bình đẳng, người vợ vì nể, sợ hay phụ thuộc kinh tế vào chồng nên lặng im, mặc dù không đồng tình và luôn cảm thấy căng thẳng, đau khổ, buồn tủi và nhìn vào thì thiên hạ không thấy họ có sự xích mích, cãi vã với nhau, họ thể hiện như là một gia đình hạnh phúc nhưng thực tế thì gia đình họ có thể nói là bất ổn, thậm chí có thể dẫn đến tan vỡ.

Một nền chính trị “giả ổn định” tương tự cơ thể một con người mang bệnh nan y nhưng hoặc họ không hiểu đủ về căn bệnh, hoặc người thân dấu không cho họ biết hay là họ đã biết nhưng cố tỏ ra khỏe mạnh để trấn an sự lo lắng của người khác hoặc để tỏ ra mình còn “thừa sức” đảm đương công việc hiện tại.

Trong một tương quan so sánh, chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay tương tự như một con đập yếu phải gồng mình chống chọi với áp lực đang dâng cao khi mà những người dân có được nhận thức về chính trị – xã hội sẽ cảm thấy họ đã bị lừa bịp, bị mê hoặc bằng những lời tuyên truyền, bị mất đi quyền làm người và mất đi quyền được cầm lá phiếu chọn người thay mình lãnh đạo đất nước. Khi người dân ý thức được những điều mà chế độ độc tài không thể mang lại và điều này chỉ có thể có được khi đất nước có một nền dân chủ, nhận thức của người dân cũng giống như mưa trời mùa lũ, mưa nhiều bao nhiêu thì áp lực càng lên cao bấy nhiêu.

Lực lượng an ninh khổng lồ của một thể chế độc tài giống như những bao cát ngày càng chất cao lên trên con đập yếu nhằm ngăn chặn tất cả những gì bị cho là bất lợi cho sự thống trị độc tôn của những kẻ độc tài. Cho dù là sự vạch trần về một chế độ thối nát đến tột độ theo nhiều hình thức, nói gần có, nói xa có, nói thẳng cũng nhiều, nói vòng vo cũng không kể xiết nhưng chế độ chính trị này gần như hoàn toàn chai lỳ và không hề có phản ứng thừa nhận sự sai lầm hay phản biện lại một cách thuyết phục từ những góp ý của các cá nhân, tổ chức, các trang báo hay những blog cá nhân cho đến sự đưa tin trung thực pha chút thẳng thắn của một vài tờ báo lớn của nhà nước và sự đóng góp ý kiến của nhiều vị lãnh đạo cuối đời mới nhìn thấy hay mới dám nói ra một phần sự thật.

Chế độ chính trị ở VN hiện nay đã trượt ra ngoài ảnh hưởng của mọi người dân và kể cả những tổ chức và cá nhân có những mối quan hệ nào đó với chính quyền bằng việc bỏ ngoài tai tất cả các ý kiến và sẵn sàng bóp chết những tổ chức phản biện xã hội ít ỏi bằng những điều luật. Vào năm 2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (TT NTD) đã ký Quyết định 97/2009/QĐ-TTg đã buộc tổ chức phản biện xã hội duy nhất của VN (tổ chức được viết tắt là IDS) bao gồm các chuyên gia hàng đầu từng là thành viên của các tổ chức Chính phủ phải giải thể. Về mặt lâu dài, với những nội dung được thể chế hóa trong tổ chức Đảng và Nhà nước, nội dung về chiến lược “chống diễn biến hòa bình”, “chống tự diễn” đã thường xuyên được nhắc đến trong các hội nghị, chuyên đề, trong các tài liệu học tập và trong sinh hoạt Đảng với mục đích là bêu xấu bất cứ ai nói khác ý kiến của lãnh đạo, gán cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào nêu ra những lỗi lầm của cá nhân hay hệ thống chính quyền là phản động, sẵn sàng chụp cho bất cứ ai một cái mũ chống lại Tổ quốc nếu tỏ ra không khuất phục sự lãnh đạo độc tôn của ĐCS. Đối với những tiếng nói khác biệt hiện nay đều là mục tiêu của những kẻ quẩn trí điên loạn đang tìm mọi cách bảo vệ sự độc tài của mình. Một mặt ĐCS thâu tóm hết tất cả gồm trên 700 tờ báo, đài radio, truyền hình và không cho lập dù chỉ một tờ báo tư nhân theo như trả lời phỏng vấn của TT NTD vào năm 2007 “không cho phép có báo chí tư nhân”. Cho dù những kẻ phá hoại mạng thông tin internet đang núp dưới bóng nước ngoài hay “sinh tử lệnh” của ai đó thì họ cũng không thể che dấu được một thực tế là càng tỏ ra hung tợn thì cái đuôi con thú dữ càng lòi ra nhiều và ngày càng có nhiều người dân thử đặt câu hỏi về những điều mà mình còn nghi kỵ đã dần hiểu ra bộ mặt thật của một chế độ tự cho là “triệu lần dân chủ hơn chủ nghĩa tư bản” nhưng thực tế thì ngược lại hoàn toàn. Cho dù họ có tìm cách tô son điểm phấn, cho dù có ngụy trang hay che đậy thì “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra” và những cái bao cát che chắn cho con đập yếu nhất định sẽ bị dòng nước cuốn phăng đi trước đòi hỏi không thể khác của một dân tộc xứng đáng được hưởng điều tốt đẹp như những dân tộc khác trên thề giới.

Cuộc nổi dậy lật đổ tổng thống Kurmanbek Bakiyev ở Kyrgyzstan, cuộc cách mạng hoa lài ở Tunisia hay cuộc biểu tình đang diễn ra ở Ai Cập, Algeria… cho thấy các chế độ độc tài ở các thế chế thiếu dân chủ nhìn bề ngoài khó hình dung về sự thiếu ổn định nhưng chính sự độc đoán của một chính thể nó sẽ dẫn tới những bất đồng ngày càng tăng cao do bất bình đẳng xã hội cũng như sự thiếu những sự thay đổi cần thiết khi những lãnh đạo độc tài bế tắc trong quản lý kinh tế – xã hội. Khi một thành viên Chính phủ ở các nước dân chủ nhận thấy họ có lỗi trong điều hành thì tức khắc họ sẽ từ chức và điều này hầu như chưa bao giờ xảy ra ở các thế chế độc tài, thậm chí họ bị chỉ trích hay lên án gay gắt. Điều này rất phổ biến ở Việt Nam, một chính thể độc đảng đang cai trị đất nước theo hình thức nửa phong kiến, nửa cộng hoà giả dân chủ.

Ổn định chính trị không thể có được nhờ vào sự sắp đặt của một chính thể mà nó chỉ có thể có được trong quá trình kiến tạo và xây dựng một nền dân chủ. Ổn định chính trị không tuân theo những suy nghĩ chủ quan mà nó là sản phẩm của một quá trình tìm tòi và phát triển lâu dài của nền dân chủ trên thế giới hay nói cách khác ổn định chính trị đi đôi với việc xây dựng một thiết chế chính trị – xã hội dân chủ, nhờ có dân chủ mới có sự ổn định và nhờ có sự ổn định mà nền dân chủ mới thể hiện sự hợp lý, sự đủ đầy của nó trong việc đáp ứng những nhu cầu quản lý và điều hành một quốc gia, một lãnh thổ. Sự ổn định của một thể chế chính trị còn phản ánh mức độ tương quan về hạng mức xếp hạng mà các tổ chức về nhân quyền công bố hàng năm đối với một số các quyền tự do cơ bản của các nước trên thế giới. Một nước gần đội sổ về tự do báo chí, về quyền con người như Việt Nam đã cho thấy về sự áp đặt của tự do tư tưởng, tự do thông tin để có được sự ổn định, sự ổn định giả tạo này không chóng thì chầy sẽ phải thay đổi trước yêu cầu của cuộc sống.

Sài Gòn 29/1/2011
Hồng Lạc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét