Pages

Thứ Ba, 1 tháng 2, 2011

Thư gởi bạn

Thưa bạn,

Người Việt Nam ta có một tập tục rất đáng trân trọng. Đó là việc chúc tết nhau vào ngày tết. Con cháu thì đi chúc tết ông bà cha mẹ, chú bác cô dì. Anh em gặp gỡ chúc tết nhau. Hàng xóm láng giềng cũng nhân ngày Tết có câu chuyện cởi mở bên hàng rào. Bạn bè thì thư từ qua lại với nhau và tình nhân thì trao nhau những cánh hoa, cánh thiệp đầu năm. Nương theo tinh thần trân qúy của cha ông ta để lại, nhân ngày Tết sắp đến, tôi xin viết đôi dòng đến bạn thay cho câu chuyện đầu năm.

Bạn thân mến,

Lịch sử của dân tộc Việt Nam chúng ta ở trên giải đất này đã trải qua hơn 4000 ngàn năm. Trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước lâu dài ấy, sách sử của dân ta đã ghi lại những triều cường, oanh liệt cũng như gian khó. Triều cường thì lừng lẫy với đất trời trong bước chân uy vũ của những anh hùng dân tộc như: Hưng Đạo Vương, Bình Định Vương, Quang Trung Nguyễn Huệ, Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, hai bà Trưng, bà Triệu… trong những lần diệt Nguyên, đuổi Tống, triệt Thanh, dẹp Hán. Nhưng cũng có lúc mạt vận thê lương vì những Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc, Mạc đăng Dung và nay là Hồ chí Minh.

Cuộc thịnh suy ấy là lẽ thường tình của trời đất. Một ngày có 24 giớ, theo lẽ thì có 12 giờ thuộc về ban ngày, và 12 giờ thuộc về ban đêm. Ấy thế, vòng quay của trái đất vẫn tròn đều mà có khi ngày và đêm dài vắn khác nhau! Xem thế, thịnh suy là lẽ của Trời, nhưng sức người cũng có thể làm thay đổi phần nào quy luật tự nhiên. Nói cách khác, quy luật tự nhiên của Con Tạo vốn có trong Trời Đất, nhưng Trời không tạo ra một sắc dân này để làm nô lệ cho một sắc dân khác. Có chăng là sự cường nhược phát triển không đều mà sắc dân này, bất kể đạo lý, áp đặt sức mạnh lên trên sắc dân khác mà thôi. Theo đó, Việt Nam ta muốn có Độc Lập, Tự Chù cũng không tự nhiên mà có. Nhưng phải tìm, phải chiến đấu mới có được.

Vì thấu triệt được lẽ trời và lòng người, nên ý chí của tiền nhân ta trong Hội Nghị Diên Hồng đã được biểu lộ. Hội Nghị đã truyền hơi thở và sức sống, không phải chỉ vào thớ thịt, buồng gan của con dân Việt Nam , mà còn lay động đến cây cỏ, chiến mã, lòng sông để tạo nên những chiến công vang dội của đất nước. Cũng thế, ngày 10-8 âm lịch năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long là ý muốn tạo nên một một cơ nghiệp, một lịch sử bền vững trong nền Độc Lập thịnh trị cho dân tộc. Hơn thế, còn biểu lộ ý chí bảo vệ từng tấc đất, từng viên sỏi, từng cây cỏ của quê ta không để rơi vào tay phương bắc. Nhờ đó, sách sử Việt Nam lại ghi thêm những trang oanh liệt Ngọc Hồi, Hạ Hồi, Đống Đa, Vân Đồn… mà bất cứ ai qua Thăng Long, nay là Hà Nội cũng được nghe chuyện kể như lời kinh về đoạt giáo Chương Dương Độ, cầm hồ Hàm Tử Quan!

Rồi cũng từ thành Thăng Long này, không phãi chỉ chứng kiến những cuộc diệt Tống, đuổi Minh, phá Thanh, trừ Hồ, nhưng còn là một tượng đài uy vũ trong cuộc chiến chống xâm lăng của thực dân Pháp với Tổng Đồc Hoàng Diệu. Đến cuộc triệt công bãi thị của quân dân Hà thành đã làm tê liệt mọi sinh hoạt của thực dân Pháp vào mùa thu năm 1945. Trải qua những uy vũ và công nghiệp ấy của tiền nhân, chúng ta hôm nay có được nét tự hào là được sống với Thăng Long, được chạm vào hơi thở của tiền nhân từ ngàn năm trước . Hỏi còn gì đáng hãnh diện hơn?

Nhưng bất hạnh thay, giữa lúc toàn thể dân ta nô nức đi vào vận hội Tự Do, Dân Chủ và Độc Lập sau khi đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh đã cấu kết với đảng cộng sản Trung cộng, áp đặt lên miền bắc Việt Nam một chế độ độc tài toàn trị. Rồi mở rộng chiến tranh vào miền nam theo kế hoạch tiếp tay, hỗ trợ cho Bắc Kinh thống trị toàn vùng Đông Nam Á. Đưa cả nước ta vào vòng nô lệ cho ngoại bang cũ.

Trong suốt tiến trình xin làm nô lệ cho Trung cộng, tập đoàn Việt cộng Hồ chí Minh đã chủ trương triệt tiêu bản sắc dân tộc Việt. Triệt tiêu mọi cuộc đề kháng Tự Chủ phát xuất từ lòng yêu nước của đồng bào Việt Nam , nên đã đem những sách lược là bản sắc của Trung cộng áp đặt trên đồng bào ta, cụ thể là:

I . Mặt đời sống/ văn hóa

1. Triệt hạ thành phần dân tộc yêu nước ở nông thôn.

Có thẻ nói rằng, một trong ba cuộc tàn sát, giết hại chính đồng bào mang quốc tịch của nước mình một cách ghê rợn nhất trong lịch sữ của nhân loại, lại là cuộc cuộc thảm sát đồng bào Việt Nam ở ngoài bắc, do Hồ chí Minh, Trường Chinh và tập đoàn Việt cộng thực hiện từ 1955-1958. Trong cuộc đấu tố “Trí Phú Địa Hào” này, Hồ chí Minh đã
“đào tận gốc, trốc tận rễ”, phóng tay giết chết 170,000 người dân Việt Nam vô tội, và đày lên vùng rừng thiêng nước độc, hay bắt giam trong các nhà tù hàng trăm ngàn người khác. Sự vô luân, tàn bạo của Hồ chí Minh nếu đem ra so sánh, lấy tỳ lệ 170,000 người bị giết trên tổng số gần 14 triệu dân, so với tỷ lệ số người bị giết trên tổng số dân của Liên Sô hoặc Trung Cộng, xem ra Hồ chí Minh còn tàn bạo hơn cả Lênin, Stalin và Mao trạch Đông. Thử hỏi, Trời nào tha, Đất nào dung thứ cho những loại tội ác man rợ ấy?

2. Cuộc triệt hạ thành phần trí thức ở thành thị

Hậu qủa cuả cuộc đấu tố thành phần trí thức xã hội trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm 1958 là: Ngoài những cái chết, những cuộc sống trong đau thương của những nhà trí thức, văn nghệ sỹ dân tộc yêu nước, nó còn tiêu diệt toàn bộ ý thức tự chủ của giới sỹ phu và nền văn hóa đạo đức Việt Nam. Chúng từ đây đã tạo ra những người làm văn hóa nô lệ, chỉ biết cúi đầu tâng bốc cho những hành động dã nhân, thú tính, vô luân, phi pháp của đảng và nhà cầm quyền Việt cộng. Và triệt tiêu toàn bộ những gì thuộc về tri thức và lương tâm của ngòi bút, của con người. Nó làm phá sản nền văn hóa đạo đức, luân lý đặt trên căn bản Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của dân ta. Từ đó, mỗi ngày một chồng chất thêm những tội phạm thuộc diện man rợ, côn đồ. Rồi nó tạo ra một nền văn hóa vô văn hóa dựa trên dối trá và lừa đảo.

II. Diện chính trị.

1. Phạm văn Đồng, dưới sự chỉ đạo của Hồ chí Minh, đã nhân danh thủ tướng của cái nhà nước nhân chủ nhân dân Việt cộng, ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng biển thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là máu thịt, là xương cốt của Việt Nam vào năm 1958.

2. Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Nguyễn mạnh Cầm, Phan văn Khải, Võ văn Kiệt… đã cùng liên hệ ký hai Hiệp Định và Hiệp Thương biên giới vào các năm 1999 và 2000 để giao các vùng đất thuộc thác Bản Giốc, ải Nam Quan, bờ biển Tục Lãm, vịnh bắc bộ và núi Lão Sơn của Việt Nam cho Trung cộng.

III. Về Kinh Tế.

1. Đỗ Mười, Lê khả Phiêu. Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Nguyễn tấn Dũng, Nông dức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Nguyễn phú Trọng… kẻ trước người sau, cùng liên hệ trong vụ việc ký khế ước cho Trung cộng đặc quyền khai thác Bauxite ở trên cao nguyên Trung phần. Đây là loại “tài nguyên” như ung thư di căn, đã không có lợi về mặt kinh tế cho Việt Nam, còn tàn phá môi trường, sinh thái, đời sống của đồng bào ta ở trên cao nguyên và vùng đồng bằng của nam Việt Nam. Tệ hơn thế, tạo ra một đầu cầu cho Trung cộng lợi dụng thiết lập hệ thống căn cứ quân sự ngay trong giữa lòng đất của Việt Nam .

2. Nguyễn tấn Dũng, Nông đúc Mạnh, Nguyễn minh Triết, Nguyễn phú Trọng cùng những bí thư, thường vụ tỉnh ủy của mười tình đầu nguồn đã ký giấy cho Trung cộng gỉa danh các doanh nhân để thuê bao trên 400,000 hecta rừng để độc quyền khai thác dài hạn trong 50 năm. Trong khi ngoại nhân độc quyền chiếm hữu đất thì dân ta không có vài chục mét vuông đất để làm nhà. Còn cảnh nào tang thương hơn thế?

3. Rồi trên bình diện cả nước, các chủ thầu Trung cộng đã trúng thầu hàng ngàn những dự án xây dựng từ nhỏ đến lớn. Từ cơ sở hạ tầng cầu đường, cho đến các cơ sờ, nhà máy, mà nhân công của nước ngoài tự do ra vào cư trú trên đất nước Việt. Không có một loại văn bản nào để kiểm soát, kỉểm tra.

Thưa bạn,

Trong hoàn cảnh này, dân ta ngủ không qua đêm. Sống không trọn ngày. Lúc nhắm lại thì thấy toàn ác mộng. Khi mở mắt ra chỉ toàn thấy những bạo hành trong xã hội. Đi đến đâu, làm bất cứ việc gì cũng đều thấy những bóng ma công an, dân phòng đeo bám để rỉa rói với những luật lệ tùy nghi, tùy tiện. Nếu có những đụng chạm giữa dân ta với những người đến từ phương bắc, ngôn ngữ chĩ cần ra dấu bằng tay hoặc gỉa câm thì trăm quan cán như một, to mang trợn mắt kết luận dân ta phạm lỗi, phạm luật rồi trốn khỏi hiện trường. Phần người khách gây họa thì đi nghênh ngang như ông chủ lớn. Trên đất liền, thành phố của ta đã thế, nói chi đến nỗi nhục, nỗi đau thương của ngư dân ta ở trên biển khơi?

Đó còn là chuyện nhỏ. Dân ta ngày nay mất ăn mất ngủ, lúc nào cũng phập phồng lo sợ một sáng, một tối Trung quốc kéo tràn sang mà đặt nền đô hộ. Họ sang mà không cần đến một cuộc chiến. Bởi vì cửa ngõ biên giới đã được bỏ ngõ theo lệnh của quan cán cấp cao từ trung ương, từ bộ chính trị! Nếu có xảy ra một cuộc đụng độ nào đó thì phải được hiểu là do lòng yêu nước của anh bộ đội, của người công an còn có lòng nghĩ đến nước mà xả thân giữ nước. Nhưng cái kết qủa có khi lại còn đau thương hơn.

Cuộc chiến năm 1979 đã chứng minh. Những người bộ đội biên cương của Việt Nam xả thân giữ nước, khi chết không có chỗ chôn thây. Trong khi đó, lệnh từ trung ương cấp cao là phải làm mồ, xây nghĩa trang cho “liệt sỹ” Trung quốc ở ngay trên đất của ta. Sự kiện ấy đã nói lên rằng. Đất ấy, là đất đã được nhượng, được giao bán rồi. Bỡi lẽ, nếu là đất của Việt Nam có chủ quyền thì làm gì có thể có nghĩa trang liệt sỹ cho những kẻ bành trướng? Trường hợp họ đến từ một đất nước cách biên giới của ta hàng vạn dặm, không thể khiêng về thì còn có thể chống chế đôi phần. Nhưng ở đây, khiêng chạy bộ năm ba phút đã về đến nhà. Nhưng họ quyết nằm lại là phải có lý do. Lá rụng về cội. Đó cũng là một lý do, một ý nghĩa khác khi họ nằm lại và được nhà nước Việt cộng xây đài, dựng nghĩa trang liệt sỹ ở ngay trên đất của “ ta”! Hỡi hồn thiêng qúy tử sỹ Việt Nam , hãy nói lên tiếng nói thay cho con dân Việt Nam nỗi đau đớn này.

Khi rủi có tranh chấp lớn, thua thiệt lại đổ hết lên đầu lên cổ dân ta. Riêng phần quan cán, tùi tham đã đầy, tiền của vơ vét từ tài sản, tài nguyên của đất nước, của đồng bào đã được quan cán đem đi gời ở ngân hàng ngoại, hay mua nhà tậu phố ở phưong xa an toàn, chả thấy có quan cán nào tậu nhà mua phố ở những nơi gọi là “ môi hở răng lạnh”. Quan đi thì sung túc. Phần cán ở lại thì tiếp tục tranh nhau nghề thái thú mà hành tội dân ta. Cảnh tang thương ấy, chắc lại trăm dâu đổ đầu tằm? Thử hỏi:

- Nạn lớn của nước ai lo gánh vác?

- Nỗi thống khổ của dân, ai vỗ về?

- Vết thương của dân tộc mỗi ngày thêm lở loét ra, ai chăm sóc, chữa lành?

- Và dòng nước mắt không khô cạn của toàn dân ai là người lau khô đây?

Tôi tin rằng nỗi lo lắng, nỗi thao thức vì dân tộc ấy đang nung nấu trong tâm can các bạn. Theo đó, quê hương ta có được ngày mai sống trong Độc Lập theo ý chí của tiền nhân hay không là do các bạn quyết định.

Rồi quê hưong ta ngày mai có được một sinh hoạt trong Tự Do, Dân Chủ hay không là do chính tâm lòng các bạn mở ra trong hành động

Dân tộc ta ngày mai có được cơm no áo ấm hay không. Có còn cảnh dân oan kéo tràn trên cả nước hay không. Có còn những cảnh cơ hàn không nhà hay không là do tâm hồn đại lượng của các bạn.

Xã hội ta ngày mai có được tiếp xúc với một nền văn hóa nhân bản. Giải trừ đi những gian dối trong thời cộng sản hay không là do ý chí và sức sống của các bạn.

Rồi một nền luân lý, đạo đức nhân vị có được định bản trên quê ta ngày mai để tiêu trừ đi những tệ nạn cộng sản đang làm băng hoại xã hội hay không là do sự khai mỡ ra và lòng dũng cảm của các bạn.

Tóm lại, ngày mai, ngày mai ấy của quê hương ta ra sao là do sức sống , sự ao ước và nỗi khát vọng về một quê hương có Tự Chủ có Tự Do có Nhân Quyền và Công Lý ở trong lòng các bạn.

Bạn thân mến,

Tôi xin mượn lời của Tổng thống, Thủ Tướng đương nhiệm Nga, cựu trùm mật vụ KGB , Vladimir Putin để kết lá thư này là: “Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim” Tôi tin chắc chắn rằng, các bạn trẻ Việt Nam của chúng ta luôn là những người nuôi theo chí lớn của tiền nhân. Giữ vững nền Độc Lập của quê hương. Yêu nước, thương đồng bào của mình. Họ không bao giờ là những kẻ có cung cách nô lệ cho cộng sản, hay làm kẻ buôn dân bán nước. Trái lại, khí phách của Non Sông sẽ được mở ra từ những người trẻ này.

Vì cùng chung một niềm tin là vận mệnh dân tộc ta sẽ đổi mới. Hôm nay, nhân ngày tết đến, tôi xin kính chúc bạn và gia đình một năm mới an khang. Một năm mới thành đạt với nghị lực mới, tư duỳ đổi mới, để cùng dân tộc ta thực hiện một lời thề vì non nước, đem lại an vui và hạnh phúc cho đồng bào của chúng ta. Được như thế, quê hương này đời đời ghi công ơn của các bạn.

Bảo Giang.

Xuân Tân Mão.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét