Pages

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

CÁC HỌC GIẢ TRUNG QUỐC PHÂN TÍCH VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

TTXVN (Bắc Kinh 26/7)

Với nhan đề “Quốc tế đều cho rằng chủ quyền Nam Hải (Biển Đông) thuộc về Trung Quốc”, mạng Nhân dân Trung Quốc ngày 26/7 đăng bài viết tổng hợp ý kiến, quan điểm của một số học giả Trung Quốc phân tích về những diễn biến tiếp theo liên quan đến vấn đề Biển Đông. Nội dung chính của bài báo như sau:
Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN vừa bế mạc ngày 23/7 tại Bali của Inđônêxia. Vấn đề Nam Hải trở thành nội dung được quan tâm nhiều nhất. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì cho biết Bắc Kinh và các nước ASEAN vừa thông qua bản hướng dẫn thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Điều này không chỉ thúc đẩy hợp tác tại Nam Hải mà còn chứng minh Trung Quốc và các nước ASEAN có đủ khả năng và trí tuệ để giải quyết tranh chấp.

Nên gác lại tranh chấp tại Nam Hải

Lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Nam Hải là tranh chấp nên giải quyết bằng biện pháp hoà bình thông qua đàm phán trực tiếp với bên liên quan. Trung Quốc và các nước ASEAN tháng 11/2002 đã ký DOC với tôn chỉ duy trì ổn định tại Nam Hải, tăng cường hợp tác và tin tưởng lẫn nhau nhằm tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để cuối cùng giải quyết hoà bình tranh chấp với các nước liên quan. Tuy nhiên, tình hình Nam Hải trong suốt 9 năm qua vẫn không hề ổn định. Lý giải về nguyên nhân của tình trạng kể trên, nhà nghiên cứu Thẩm Kí Như thuộc Phòng Nghiên cứu Kinh tế và Chính trị thế giới, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, cho rằng có ba nguyên nhân như sau: Thứ nhất, một số nước xung quanh, đặc biệt là Việt Nam và Philippin, đã hiểu nhầm thành ý hoà bình của Trung Quốc. Sự nhẫn nại và nhượng bộ của Bắc Kinh do xuất phát từ đại cục đã bị cho là kém mỏi và mềm yếu nên các nước trên đã xâm chiếm phần lớn đảo, bãi đá. Thứ hai, một số nước xung quanh đã đặt ra hai tiêu chuẩn khác nhau đối với DOC. Một mặt cho rằng DOC là công cụ để trói buộc Trung Quốc, nhưng mặt khác họ lại không thèm đếm xỉa đến bản tuyên bố này, cố ý thể hiện chủ quyền với các đảo đã chiếm thông qua hàng loạt các biện pháp như sửa chữa sân bay, xây dựng công trình quân sự, cổ vũ di dân, thành lập chính quyền hành chính và xây dựng điểm du lịch để thu hút khách quốc tế… Thêm vào đó, các nước xung quanh còn tập trung tăng cường khả năng về hải quân và không quân để sẵn sàng tham chiến. Thứ ba, các quốc gia xung quanh, nhất là Việt Nam và Philippin, còn thông qua triển khai diễn tập quân sự với Mỹ để chủ trương đàm phán đa phương, nhằm quốc tế hoá vấn đề Nam Hải, gia tăng sức ép với Trung Quốc. Học giả Thẩm Kí Như khẳng định, những hành động kể trên đương nhiên sẽ làm cho cục diện ở Nam Hải ngày càng xấu đi.

Nghiên cứu viên Đằng Kiện Quần thuộc Phòng Nghiên cứu Vấn đề Quốc tế Trung Quốc, cho rằng DOC có tác dụng rất quan trọng đối với việc ổn định cục diện tại Nam Hải, bản tuyên bố này được ký kết, các nước xung quanh gần như không còn thực hiện các hành động xâm chiếm bằng quân sự. Tuy nhiên, do DOC không mang tính ràng buộc pháp lý nên các nước đã thay đổi cách thức xâm chiếm quyền lợi tại Nam Hải, phương thức xâm chiếm bằng quân sự trước đây đã biến thành việc đẩy mạnh chiếm đoạt dầu mỏ, khí tự nhiên cùng các tài nguyên khác với phạm vi và cường độ ngày càng lớn.

Cùng khai thác tài nguyên, đôi bên cùng thắng

Tài nguyên tại Nam Hải chính là nguyên nhân khiến vấn đề tranh chấp tại khu vực này ngày càng phức tạp. Theo nghiên cứu viên Đằng Kiện Quần, Trung Quốc đã sớm đưa ra nguyên tắc “Chủ quyền thuộc về ta, gác tranh chấp, cùng nhau khai thác”, nhưng tình hình hiện nay cho thấy các nước liên quan đồng ý “cùng khai thác”, song “ai khác thác của người đấy”. Liên quan đến chủ trương do Trung Quốc đề ra, nhà nghiên cứu Thẩm Kí Như cho rằng nguyên tắc này không những phù hợp với thực tiễn lịch sử mà còn phù hợp với luật pháp quốc tế, đồng thời tuân theo trào lưu toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, một số nước xung quanh đã áp dụng các phương thức bài trừ Bắc Kinh như thôn tính các đảo, độc chiếm nguồn tài nguyên tại Nam Hải và không ngần ngại lôi kéo thế lực bên ngoài nhằm quốc tế hoá tranh chấp… Làm như vậy, tình hình tại Nam Hải sẽ không thể an toàn và ổn định. Đáng chú ý, ASEAN vẫn chưa mất đi lý trí và tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN+1 vừa qua đã chính thức thông qua phương châm chỉ đạo thực hiện DOC, theo đó sắp xếp lại các nội dung của Điều 6 trong DOC, trước khi giải quyết toàn diện và lâu dài tranh chấp, các bên liên quan có thể đàm phán hoặc triển khai hợp tác. Phương châm chỉ đạo này đã thể hiện chủ trương “gác tranh chấp, cùng nhau khai thác của Trung Quốc”. Có thể tin tưởng rằng thông qua thực hiện phương châm chỉ đạo kể trên, các nước liên quan trong hợp tác sẽ tăng cường tin tưởng lẫn nhau, thu hẹp bất đồng và tạo điều kiện thuận lợi để cuối cùng giải quyết vấn đề Nam Hải.

Nghiên cứu viên Lưu Nham thuộc Phòng Nghiên cứu Chiến lược phát triển Hải dương, Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, cho rằng thế giới trong thế kỷ 21 sẽ mở rộng ngành hải dương, khai thác và sử dụng một lượng lớn tài nguyên biển. Tuy nhiên, trên phạm vi toàn thế giới có đến hơn 380 vùng biển cần phân định biên giới giữa các quốc gia ven biển và hiện nay mới chỉ giải quyết được khoảng 1/3. Trong khoảng thời gian 20 năm tới, việc phân định biên giới trên biển sẽ là một phương diện quan trọng của ngành hải dương quốc tế. Những hoạt động tranh chấp quyền lợi hải dương với mục đích chủ yêu là chiếm đoạt tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cũng như tận dụng tài nguyên dưới đáy tại các vùng biển quốc tế sẽ ngày càng căng thẳng và phức tạp. Các nước xung quanh có lợi ích rất lớn tại Nam Hải, ví dụ như dầu khí đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ yếu, chiếm khoảng 30% GDP của Việt Nam. Nghiên cứu viên Lưu Nam khẳng định, “cùng khai thác” tại Nam Hải giữa Trung Quốc và các nước là sự lựa chọn thắng lợi cho cả đôi bên. Nếu có thêm bên thứ ba, một phần lợi ích của Trung Quốc và các nước sẽ bị lấy đi mất nên mọi người cần gạt bỏ những toan tính lợi ích cá nhân. Khai thác toàn bộ tài nguyên hải dương ở Nam Hải đủ để thúc đẩy kinh tế hải dương thế giới phát triển.

Mỹ can thiệp còn mang dụng ý khác

Nhà nghiên cứu Đằng Kiện Quần phân tích Mỹ từ thời Tổng thống Reagan đã quan tâm đến vấn đề Nam Hải và chính sách đối với khu vực này càng thể hiện rõ hơn dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Oasinhton từ năm ngoái đến nay can thiệp nhiều hơn vào các vụ việc tại Nam Hải khiến Việt Nam, Philippin và các nước khác cho rằng Mỹ chính là chỗ dựa của mình. Mỹ quan tâm đến hàng hải và tự do đi lại ở Nam Hải nên muốn duy trì sự hiện diện quân sự của mình tại khu vực này. Do vậy, duy trì trạng thái căng thẳng ở mức độ nhất định nào đó hoàn toàn không phải là điều bất lợi cho Oasinhton. Làm như vậy, các nước trong khu vực sẽ phải lôi kéo và cần đến sự tồn tại Mỹ, đồng thời Oasinhton cũng phát huy được tối đa khả năng kiềm chế Trung Quốc. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh hiện nay, Mỹ không thể giúp Việt Nam hoặc Philippin triển khai một cuộc “so tài cao thấp”, thậm chí là xung đột với Trung Quốc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao. Cùng quan điểm, nhà nghiên cứu Trung Quốc Thẩm Kí Như cho rằng đây chính là biểu hiện cho kế hoạch “quay chở lại châu Á” của Chính quyền Obama. Trên thực tế, Mỹ từ trước đến nay trên lĩnh vực kinh tế và quân sự chưa từng rời khỏi châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Á. Mỹ sở dĩ muốn “quay trở lại châu Á” bởi các lý do: Thứ nhất, muốn kiềm chế Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ; Thứ hai, sợ rằng Trung Quốc nhanh chóng lớn mạnh sẽ khiến ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc bỏ Oasinhton đi theo Bắc Kinh. Mỹ muốn thông qua việc kiềm chế Trung Quốc để bảo vệ lợi ích và “quyền chủ đạo” của mình ở Đông Á và Nam Hải là vấn đề tốt nhất để Oasinhton lợi dụng thực hiện hai mục đích này. Tuy nhiên, mức độ can thiệp của Mỹ vào các công việc liên quan đến ASEAN, đặc biệt là vấn đề Nam Hải cũng có giới hạn nhất định, điều này đồng nghĩa với việc Oasinhton muốn kiềm chế Bắc Kinh, nhưng tránh đối dầu toàn diện. Từ đó cho thấy, một số nước hy vọng được Mỹ giúp đỡ để thôn tính Nam Hải cùng các hòn đảo chỉ là sự tính toán phiến diện, khó lòng thực hiện.

***

Trang chấp Biển Đông là vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều bên, không thể giải quyết triệt để trong thời gian ngắn. Tiến sĩ Trương Tiểu Thiên thuộc Tổ bộ môn Chiến lược, Đại học Quốc phòng Trung Quốc có bài viết đăng trên báo “Quốc phòng Trung Quốc” ngày 26/7, đề cập đến bốn cách tư duy giải quyết vấn đề Nam Hải (Biển Đông) như sau:

Cách thứ nhất: Giải quyết bằng vũ lực – cuộc đấu kép giữa quân sự và chính trị

Quan sát trên mạng hiện nay sẽ thấy rất nhiều người ủng hộ biện pháp dùng vũ lực giải quyết vấn đề Nam Hải. Xét tổng thể về so sánh lực lwongj thì thực lực quân sự của Trung Quốc chắc chắn mạnh hơn Việt Nam và Philippin, khả năng giành thắng lợi cũng nhiều hơn. Hơn nữa Mỹ không có lợi ích chiến lược mang tính thực chất ở Nam Hải, nếu Trung Quốc dùng vũ lực giọng điệu của Mỹ sẽ không nhẹ nhàng, nhưng cũng khó có thể ra tay mạnh mẽ với Trung Quốc vì vấn đề Nam Hải. Từ đó có thể suy luận, nếu xảy ra chiến tranh ở Nam Hải, Trung Quốc rất có thể giành thắng lợi về mặt quân sự, nhưng đồng thời ảnh hưởng bất lợi của việc giải quyết bằng vũ lực cũng sẽ hết sức rõ rệt. Thứ nhất, sẽ khiến cho thù hận giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippin, thậm chí với cả một số nước khác tích tụ lâu dài, ảnh hưởng đến tình hình khu vực xung quanh Trung Quốc; Thứ hai, khiến cho rạn nứt giữa Trung Quốc và khối chính trị châu Á, chủ yếu là ASEAN sẽ lớn thêm, thế lực thứ ba bên ngoài sẽ được lợi, rơi trúng kế kiềm toả của Mỹ; Thứ ba, ý tưởng chính trị của Trung Quốc sẽ bị nghi ngờ, cộng thêm sự kích động, xúi giục của nước lớn bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến môi trường chiến lược của Trung Quốc, cản trở cơ hội phát triển chiến lược của Trung Quốc. Nếu xem xét một cách biện chứng thì ảnh hưởng sử dụng vũ lực không phải là thắng lợi tuyệt đối mà phải căn cứ theo thời cơ, xu thế và tình hình của nước bá quyền để nắm bắt một cách linh hoạt.

Cách thứ hai: Thoả hiệp nhượng bộ – nhân nhượng lợi ích đơn phương hoặc đa phương

Trong xử lý các vấn đề quốc tế, nhất là trong cuộc chơi chiến lược giữa các nước lớn, khả năng các bên lợi ích liên quan tuyệt đối không thoả hiệp, không nhân nhượng là rất ít, nghĩa là dù nhiều dù ít đều có phần nhượng bộ nào đó. Vấn đề thoả hiệp hoặc nhượng bộ đề cập ở đây liên quan đến hai khả năng. Thứ nhất, Trung Quốc đơn phương chịu hy sinh để thoả hiệp, nhượng bộ; Hai là các bên lợi ích liên quan đều có sự thoả hiệp nhân nhượng trên cơ sở tôn trọng, thông cảm và hiểu biết lẫn nhau. Điều rõ ràng là đơn phương thoả hiệp sẽ là tổn hại tuyệt đối về lợi ích quốc gia, hơn nữa không nhất thiết có thể đổi lại được hoà bình lâu dài, cũng không có lợi cho việc giải quyết triệt để vấn đề, như vậy là một hạ sách. Về mặt lý thuyết, việc các bên đều có thoả hiệp và nhượng bộ nào đó là tương đối hiện thực, dễ dàng cho việc giải quyết vấn đề Nam Hải. Tuy nhiên trong thao tác thực tế, cách nghĩ về các bên đều có thoả hiệp, nhượng bộ nhất định cũng đứng trước rất nhiều thách thức mang tính hiện thực. Thứ nhất, có nước không muốn có bất cứ nhượng bộ nào; Thứ hai, có nước được một muốn mười, không ngừng gặm nhấm như tằm ăn lá dâu đối với lợi ích biển của Trung Quốc; Thứ ba, có nước lôi kéo thế lực nước lớn ngoài khu vực, hòng làm cho vấn đề Nam Hải trở nên quốc tế hoá và phức tạp hoá. Trong bối cảnh như vậy, cách tư duy chiến lược cho rằng một bên nào đó đơn thuần thoả hiệp sẽ khiến cho lợi ích quốc gia của mình bị tổn hại. Nếu muốn thay đổi tình hình, khiến cho nước đương sự hữu quan đều ngồi vào bàn hiệp thương thẳng thắn và thành thật thì phải có biện pháp mạnh mẽ trong các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự, quốc tế v.v…, tạo điều kiện cho hiệp thương công bằng.

Cách thứ ba: Gác lại lâu dài – đau khổ vướng víu cả trước mắt và lâu dài

Gác lại lâu dài là biện pháp gác lại tranh chấp, đợi điều kệin chín muồi sẽ tiếp tục giải quyết. Vào thập niên 80 thế kỷ trước, Đặng Tiểu Bình đã đề xuất tư tưởng chỉ đạo “chủ quyền thuộc về ta, gác lại tranh chấp, cùng khai thác”, tạm thời được gác lại vấn đề Nam Hải, đợi điều kiện chính muồi sẽ tiếp tục tìm biện pháp giải quyết theo nguyên tắc chủ quyền thuộc về ta. Đến nay vấn đề Nam Hải đã được gác lại hơn 20 năm, ảnh hưởng tích cực đã là có được thời gian cho phát triển quốc gia, thực lực của quốc gia đã được nâng lên mạnh mẽ, nhưng ảnh hưởng tiêu cực là trong hơn 20 năm đó tranh chấp không ngừng xảy ra. Nghiêm trọng hơn nữa là lãnh hải bị phân chia, các đảo bị xâm chiếm, tài nguyên bị cướp đoạt, tình hình như vậy không ngừng xấu đi, đã mấp mé ranh giới không thể tiếp tục gác lại. Trong thời gian tới nếu muốn tiếp tục gác lại sẽ phải đứng trước rất nhiều thách thức. Thứ nhất, tiếp tục gác lại có nghĩa là vấn đề cứ tiếp tục tồn tại, ảnh hưởng lâu dài đến ổn định ở môi trường xung quanh; Thứ hai, tiếp tục gác lại sẽ khiến cho vấn đề tập trung áp lực, cộng thêm bị nước bá quyền kiềm chế, cùng với ảnh hưởng của một số vấn đề an ninh khác sẽ tồn tại rủi ro bị kích hoạt tập trung trong một thời kỳ nào đó; Thứ ba, tiếp tục gác lại cho thấy rạn nứt ở Đông Nam Á, thậm chí ở cả khu vực châu Á sẽ tồn tại lâu dài, không có lợi cho việc chấn chỉnh xu thế chiến lược tổng thế.

Cách thứ tư: “Cùng có” – sức cuốn hút của thời đại hoà bình và phát triển

Tư duy chiến lược “cùng có” có nội hàm đặc biệt. Về mặt lý luận, không phải là các nước hữu quan cùng có chung Nam Hải mà bao hàm ba lớp ý nghĩa sau đây:

Thứ nhất, đối với khu vực lãnh hải mà bên liên quan đã công nhận rõ cho nước nào đó có chủ quyền thì không cho phép tranh chấp trở lại và gây nên tranh chấp.

Thứ hai, đối với vùng biển mà các bên liên quan đang tranh chấp, nếu theo truyền thống lịch sử và luật pháp quốc tế đều có chứng cứ rõ ràng cho thấy phải thuộc về nước nào đó thì cần hiệp thương tập thể để công nhận là thuộc về nước đó.

Thứ ba, đối với vùng biển mà các bên đang tranh chấp, nếu không có chứng cứ được toàn thẻ các bên nhất trí công nhận, không thể chứng minh phải thuộc về nước nào thì có thể xác định các nước đương sự cùng có chung theo hình thức nào đó. “Hình thức nào đó” cụ thể là gì, cần phải tiếp tục đi sâu khai thác, tìm kếim. Theo suy nghĩ sơ bộ, ít nhất có thể có hai cách xác định: Một là quy thuộc chủ quyền về chính trị và quyền lợi kinh tế đối với vùng biển đó sẽ được hai hoặc hai nước trở lên cùng sở hữu, không có phân định rõ rệt theo giới hạn địa lý, các nước đương sự cùng khai thác, sử dụng và bảo vệ bằng hình thức cổ phần; Hai là quyền lợi chính trị đối với vùng biển quy về cho một nước nào đó sở hữu, đồng thời lợi ích kinh tế sẽ quy về cho các nước đương sự cùng sở hữu, các nước đương sự căn cứ theo theo tỉ lệ giá trị kinh tế để cùng khai thác, sử dụng và bảo vệ an ninh vùng biển.

Tư duy chiến lược “cùng có” có những ưu điểm rõ rệt. Thứ nhất, có thể loại bỏ mâu thuẫn và tranh chấp giữa các nước với nhau, dễ được Chính phủ và nhân dân các nước chấp nhận; Thứ hai, các nước đương sự có thể cùng hưởng lợi ích kinh tế, thúc đẩy các nước cùng khai thác, sử dụng và bảo vệ; Thứ ba, có thể liên hệ chặt chẽ các nước đương sự lại với nhau, cùng có lợi ích chung ở khu vực Nam Hải, xây dựng quan hệ chiến lược hữu nghị và môi trường chiến lược hữu nghị.

Một ưu điểm rõ nét hơn nữa là hiện nay ngày càng có nhiều người nhận thức được rằng “trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21 con đường phát triển trỗi dậy hoà bình của Trung Quốc đòi hỏi phải cụ thể hoá thêm một bước”, “một xu hướng quan trọng là mở rộng và làm sâu sắc thêm điểm gặp gỡ lợi ích giữa các bên, từ các nước và các khu vực khác nhau sẽ xây dựng một cách toàn diện thành cộng đồng lợi ích trong các lĩnh vực khác nhau và ở các cấp độ khác nhau”. Theo tư tưởng này thì việc coi tư duy chiến lược “cùng có” là cách thử nghiệm hữu ích để giải quyết vấn đề Nam Hải không chỉ có lợi cho việc giải quyết bản thân vấn đề Nam Hải, mà sẽ còn đặt cơ sở để xây dựng cộng đồng lợi ích giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc phát triển lâu dài, thậm chí dẫn dắt đến thế giới đến tiến bộ. Tuy nhiên, tư duy “cùng có” đòi hỏi phải có một số điều kiện, một điểm quan trọng trong đó là khả năng lý giải và tiếp nhận của các nước đương sự đối với ý tưởng “cùng có”. Hiện nay và một thời kỳ tới đây, trong tiếng gọi hấp dẫn của trào lưu chủ quyền quốc gia có thể nhân nhượng một phần để cùng phát triển, có tồn tại khả năng này.

Trong bốn kiểu tư duy chiến lược nói trên, kiểu nào cũng đều có cả thế mạnh, thế yếu và phải có những điều kiện cơ bản, cần xuất phát từ toàn cục chiến lược an ninh và phát triển quốc gia để có được quy hoạch tổng thể đối với vấn đề Nam Hải. Dù lựa chọn theo cách tư duy nào cũng đều phải kết hợp tình hình thực tế để nắm bắt vấn đề, cần vận dụng một cách tổng hợp tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và sức mạnh quân sự của quốc gia. Trong thao tác thực tế có thể lấy một kiểu nào đó làm chủ thể, các kiểu khác còn lại là phụ trợ, nhưng cũng có thể phối hợp tất cả.

Ngoài ra, cần phải chỉ rõ rằng cần đối phó thoả đáng với nước lớn ngoài khu vực gây trở ngại, lợi dụng và can thiệp, vừa phải đề phòng tổn thất lợi ích quốc gia lại vừa phải đề phòng tổn hại lợi ích khu vực. Đó là nhân tố bên ngoài lớn nhất ảnh hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề Nam Hải, cũng là nhân tố then chốt khiến cho chiến lược khu vực Nam Hải có thành công được hay không./.

Không có nhận xét nào: