GS Susan Williams
-
Toà án độc lập giữ vai trò quan trọng trong việc
kiểm soát lạm quyền bởi lập pháp và hành pháp. Nhưng toà án chỉ có thể thực hiện
tốt vai trò này khi Hiến pháp bảo vệ tòa án bằng cách minh định các bảo đảm và
sự độc lập cần thiết, để toà án có thể đối trọng với các ngành khác trong chính
quyền và bảo vệ các quyền con người một cách hữu hiệu.
Toà án là cơ chế quan trọng để bảo đảm
việc thực thi Hiến Pháp
Một quốc gia có thể có một bản hiến pháp với
những lời lẽ thật hoa mỹ mà không có tác dụng gì trong thực tế, nếu không có cơ
chế thi hành bản Hiến pháp đó. Mọi chính quyền – ngay cả các chính quyền tốt và
dân chủ – đôi khi cũng vi phạm hiến pháp. Đặc biệt, quyền con người rất dễ bị
tổn thương, bởi vì cả lập pháp lẫn hành pháp đều có lợi khi vi phạm quyền của
một cá nhân nào đó.
Lập pháp hay hành pháp vi phạm quyền con người có thể do
thiếu hiểu biết (họ không ý thức được họ đang vi phạm quyền) hoặc vì lo sợ
(trong tình trạng khẩn cấp quốc gia, khi sự lo âu hoảng hốt dâng cao), hoặc chỉ
vì họ cho rằng có những mục tiêu quan trọng hơn là quyền con người (như lợi ích
của chính họ hay nguyện vọng của các cử tri của họ). Trong các trường hợp như
vậy, hiến pháp cần minh định một cơ quan độc lập có quyền và trách nhiệm thực
thi hiến pháp, trong đó có việc thực thi các điều khoản nhân quyền. Tòa án có
thể không phải là cơ chế thi hành hiến pháp duy nhất (và thực sự, có thêm các cơ
chế khác như văn phòng kiểm tra đặc biệt, tương tự như mô hình Ombudsman của Đan
Mạch, là một ý kiến hay). Nhưng toà án là một cơ quan bảo hiến quan trọng.
Toà án phải độc lập với mọi ngành khác
trong chính quyền
Toà án phải giữ vai trò giám sát thường xuyên và
xông pha trong thực thi hiến pháp: Toà án phải “canh giữ” Hiến pháp khỏi những
lạm dụng bởi chính quyền. Để hoàn thành vai trò đó một cách hữu hiệu, toà án
phải độc lập với mọi ngành khác trong chính quyền. Nếu thẩm phán chịu sự chi
phối của quyền hành pháp hoặc lập pháp – ví dụ như có thể bị Chủ tịch nước tuỳ
nghi bãi nhiệm, hoặc bị trừ lương bởi quyết định của ngành Lập pháp – thì họ sẽ
không thể đương đầu kháng cự những vi phạm Hiến pháp của các cơ quan đó. Chỉ khi
nào ngành Tòa án được bảo vệ khỏi những ảnh hưởng và kiểm soát bởi các ngành
khác trong chính quyền, Tòa án mới có thể trở thành cơ quan bảo vệ Hiến pháp hữu
hiệu.
Tòa án cần một số cơ chế bảo vệ đặc
biệt
Để thật sự độc lập với các ngành khác của chính
quyền, toà án và các thẩm phán cần một số cơ chế bảo vệ đặc biệt.
1. Các thẩm phán phải được bổ nhiệm qua một thủ
tục hạn chế việc các chính trị gia có thể cài những người thân cận, như bạn bè
hoặc thân hữu hoặc cử tri, vào tòa án. Mục đích là để đảm bảo các thẩm phán được
bổ nhiệm do trình độ và khả năng, cũng như do tinh thần trách nhiệm và ý thức
đạo đức nghề nghiệp của họ. Để đạt được điều này, một trong những cách tốt nhất
là đề ra thủ tục bổ nhiệm trong đó nghiệp đoàn độc lập của giới luật sư, hay
luật sư đoàn, chịu trách nhiệm đưa ra một danh sách các ứng viên cho các vị trí
thẩm phán. Các nghiệp đoàn này tất nhiên phải độc lập với chính quyền. Chỉ khi
nào có sự độc lập đó, họ mới có thể có động lực kiến tạo và giữ gìn các tiêu
chuẩn khắt khe về khả năng chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, để có thể nâng cao
uy tín cho ngành nghề của họ. Các ứng viên vào vị trí thẩm phán phải là những
người có uy tín trong ngành luật vì sự hiểu biết và khả năng phán xét của họ.
Khi có vị trí thẩm phán nào cần bổ nhiệm, ngành hành pháp phải chọn một trong
các ứng viên trong danh sách đó. Ngoài ra, một hội đồng các thẩm phán đương
nhiệm cũng có thể tự lập ra một danh sách các ứng viên tương tự cho các vị trí
thẩm phán cần bổ nhiệm trong tương lai.
2. Các thẩm phán, một khi đã được bổ nhiệm, phải
được bảo đảm nhiệm kỳ làm việc lâu dài. Nhiệm kỳ này có thể là suốt đời hoặc một
thời gian nhất định nào đó, nhưng thời gian đó phải đủ dài (từ 10 đến 20 năm có
thể là một lựa chọn) để các thẩm phán có thể trau dồi kỹ năng chuyên môn mà
không phải lo âu về việc làm trong tương lai trong khoảng thời gian đủ dài đó.
Nhiệm kỳ của họ cũng có thể được tính theo tuổi của thẩm phán, ví dụ, nhiệm kỳ
của một thẩm phán có thể kéo dài đến tuổi 70. Điều quan trọng là vị trí thẩm
phán được bảo đảm trong một khoảng thời gian cụ thể và đủ dài, để các thẩm phán
yên tâm làm việc. Thêm vào đó, Hiến Pháp cần bảo đảm rằng một khi đã được bổ
nhiệm, một thẩm phán không bị bãi nhiệm trước khi nhiệm kỳ kết thúc, trừ khi có
bằng chứng thẩm phán đó đã có những vi phạm đạo đức nghề nghiệp nghiêm trọng.
Tiêu chuẩn và thủ tục bãi nhiệm cũng phải được quy định rõ ràng trong Hiến pháp
(ví dụ, ai quyết định tiêu chuẩn bãi nhiệm đã hội đủ: tòa án cấp cao hơn hay
ngành lập pháp?). Mục đích là để công việc của thẩm phán được bảo đảm ổn định
trong thời gian tại chức, và thẩm phán không thể bị mất việc trừ phi có những
sai phạm nghiêm trọng. Có như vậy các thẩm phán mới có thể đưa ra các phán quyết
mà không sợ bị buộc cách chức vì các phán quyết đó.
3. Lương của thẩm phán trong thời gian tại chức
cũng phải được bảo đảm. Lập pháp hay hành pháp chỉ được quyền thay đổi mức lương
dành cho thẩm phán với hai điều kiện: (1) các thay đổi, nếu có, sẽ được áp dụng
đồng bộ (tức là chúng được áp dụng cho tất cả các thẩm phán cùng cấp, chứ không
chỉ riêng cho cá nhân nào); và (2) các thay đổi không được hồi tố (tức là chúng
chỉ áp dụng cho những thẩm phán được bổ nhiệm sau đó vào các vị trí liên quan,
chứ không áp dụng cho những thẩm phán đang tại vị). Đây là hình thức bảo vệ các
thẩm phán, để các cơ quan chính trị không thể trả thù cá nhân một thẩm phán vì
một phán quyết họ không thích, bằng cách cắt giảm lương của thẩm phán đó.
4. Ngành Tòa án cần nắm quyền kiểm soát các công
việc hành chính nội bộ của ngành mình. Các công việc điều hành nội bộ có thể gồm
có việc cử các thẩm phán nào xét xử vụ án nào, số tiền dành cho quản trị ngành
được chi tiêu như thế nào, nhân viên hành chính được tuyển dụng hay sa thải ra
sao, v.v. Nếu bên lập pháp hoặc hành pháp có thể can dự vào những vấn đề điều
hành chi tiết như vậy, họ có thể gây nhiều khó khăn cho các thẩm phán mà họ
không ưa. Qua sự can dự hành chính đó, họ cũng có thể gây ảnh hưởng lên các phán
quyết của thẩm phán thông qua việc điều khiển nhân sự và phân bổ công việc của
toà án. Ví dụ, các thẩm phán thường tuyển dụng phụ tá pháp lý. Nếu hành pháp có
thể quyết định ai sẽ được tuyển vào các vị trí phụ tá để giúp trong việc nghiên
cứu pháp lý và soạn thảo phán quyết, họ có thể chọn những người tìm cách thúc
đẩy nghị trình lập pháp (thay vì đề cao án lệ và công lý trong từng vụ án cụ
thể), và có thể gây ảnh hưởng lên kết quả phán xử của các vụ án. Chỉ khi toàn
quyền điều hành các công việc nội bộ, tòa án mới có thể thực sự độc lập với các
ngành khác trong chính quyền.
Trần Duy Nguyên và Nguyễn Thị Hường (dịch)
Theo: Tia
sáng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét