Pages

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

Đừng tin những gì Trung Cộng và Việt Cộng nói. Hãy nhìn kỹ những gì Trung Cộng và Việt Cộng làm.


Trước tòa đại sứ Trung Cộng ở Hà Nội – Ảnh internet
Don’t believe in what red China and red Vietnam have said. Let’s scrutinize what red Vhina and red Vietnam have done.
Lịch sử đã chứng kiến hai tên đầu đảng Trung Cộng là Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã từng ủng hộ tên đầu đảng Nga Cộng là Khrushchev trong luận điệu tuyên truyền “Sống Chung Hoà Bình” giữa các quốc gia với nhau, nhưng thực tế thì Trung Cộng và Nga Cộng cứ thỉnh thoảng nổ súng bắn nhau để giành chiếm vài cây số đất biên giới Nga-Hoa và thỉnh thoảng chửi nhau là “Bọn Xét Lại”.


Lịch sử cũng đã chứng kiến trong hai năm 1953 và 1954 Chu Ân Lai gian xảo lừa gạt Miến Điện và nhất là Thủ Tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru với bản đề nghị Năm Nguyên Tắc Sống Chung Hòa Bình của Trung Cộng trong những cuộc thương lượng với Ấn Độ về vấn đề biên giới Hoa-Ấn và vấn đề Tây Tạng sau khi đã xâm chiếm nước Tây Tạng độc lập để sát nhập vào lãnh thổ Trung Cộng. Đến năm 1962 bộ đội của đảng Trung Cộng lại tấn công đánh chiếm hai tỉnh phía bắc của Ấn Độ và một tỉnh của Miến Điện giáp biên giới Hoa-Miến. Cho đến khi ngưng bắn và phải trả lại những diện tích đất biên giới mà bộ đội Trung Cộng đã đánh chiếm thì Trung Cộng đã làm xong công việc di chuyển các cột mốc và vẽ lại đường ranh biên giới vào những vùng có tính chiến lược quan trọng có lợi cho Trung Cộng.

Lịch sử đã lập lại một lần nữa trong năm 1955 khi Chu Ân Lai lớn tiếng hô hào Năm Nguyên Tắc Sống Chung Hoà Bình tại cuộc Hội Nghị Bangdung ở nước Nam Dương của các nước nhược tiểu chậm tiến Á-Phi; Trung Cộng đã nỗ lực chủ động trong việc tuyên truyền và thành lập một Phong Trào Phi Liên Kết của 29 nước Á Châu và Phi Châu, trong số đó có Ấn Độ và Bắc Việt Cộng. Có một điểm chính quan trọng nổi bật trong bản tuyên bố chung của kết quả cuộc Hội Nghị Bangdung là Trung Cộng sẽ không yểm trợ cho những cuộc nổi loạn Cộng Sản Địa Phương ở trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là ở các nước Phi Luật Tân, Nam Dương, Thái Lan, Singapore và Mã Lai; Trung Cộng nhấn mạnh rằng sẽ tránh xa các Cộng Đồng Hoa Kiều hải ngoại ở các nước này. Sự thật rõ ràng trái ngược những gì Chu Ân Lai đã tuyên bố và ký kết, vì trong thực tế là những phong trào cộng sản địa phương nổi loạn ở Phi, Nam Dương, Thái Lan, Singapore và Mã Lai trong hai thập niên 1950 và 1960 đều có sự tiếp tay giúp sức của các chuyên gia quân sự, cán bộ tuyên huấn Trung Cộng và những cảm tình viên cộng sản trong các Cộng Đồng Hoa Kiều và Đạo Quân Thứ Năm của đảng Trung Cộng ở các nước này. Đặc biệt là ở đảo quốc Singapore đã đang có mặt rất đông cán bộ đảng Trung Cộng hội nhập vào xã hội người Hoa Kiều sở tại kể từ năm 2008 cho tới nay.
Trong lúc guồng máy tuyên truyền của đảng Trung Cộng luôn luôn lớn tiếng hô hào “Sống Chung Hoà Bình” thì guồng máy chiến tranh của Trung Cộng luôn luôn biết nắm giữ thời cơ để sẵn sàng nổ súng lấn chiếm trái phép những vùng đất biên giới của các nước nhỏ láng giềng. Trong hai năm 1954 và 1958 các đơn vị pháo binh Trung Cộng đã nã đạn trọng pháo vào hai đảo Mã Tổ và Kim Môn của đảo quốc Đài Loan với ý đồ muốn chiếm lấy hai đảo này nhưng đã bị Đài Loan chống cự mạnh mẽ và có sự bảo vệ của Hải Quân Mỹ nên Trung Cộng đã không thực hiện được ý định cưỡng chiếm các đảo này.
Tháng Sáu năm 1950 bộ đội chí nguyện quân Trung Cộng đã trực tiếp hợp đồng tác chiến cùng với bộ đội Bắc Hàn Cộng khởi động tấn công xâm chiếm Nam Hàn. Nếu không có Quân Đội Mỹ trực tiếp giúp sức Quân Đội Nam Hàn đánh trả Trung Cộng và Bắc Hàn Cộng thì nhân dân Nam Hàn bây giờ phải chịu dưới sự cai trị tàn ác của Bắc Hàn Cộng và bị lệ thuộc Trung Cộng như tình hình hiện nay.
Hơn nữa, trong hai chục năm từ 1950 đến 1970 Trung Cộng đứng đầu các nước Thế Giới Thứ Ba chậm tiến nghèo đói và Trung Cộng đã nỗ lực thúc đẩy các phong trào cộng sản địa phương theo Mao-ít nổi loạn trong nước vì đã áp dụng chiến thuật du kích trong chiến tranh nhân dân chống chính quyền đương thời. Trung Cộng đã thành công trong công tác tuyên truyền cho những người nông dân địa phương kém hiểu biết và cuồng tín học tập tư tưởng Mao, rồi thúc đẩy họ liều mạng sống của mình để cướp lấy chính quyền; nhất là liều mạng của mình cướp lấy quyền lực và quyền lợi kinh tế cho bản thân và gia đình của mình trước hết mọi thứ khác.
Riêng ở nước Việt Nam trong thời gian mười năm từ 1945 đến 1955 đảng Việt Cộng cũng đã không tránh khỏi sự chi phối toàn diện trực tiếp ảnh hưởng mạnh mẽ của đảng Trung Cộng. Bằng cớ rõ ràng là từ chính những cái miệng của những tên đầu đảng Việt Cộng gần đây đã dám chính thức lên tiếng luôn luôn tri ân đảng Trung Cộng có công ngay từ ngày đầu tiên cho tới hôm nay đã đào tạo sĩ quan chỉ huy và xây dựng củng cố được cái gọi là Quân Đội Việt Cộng.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950-1953 đã có nhiều sĩ quan chỉ huy và rất đông bộ đội “chí nguyện quân” Trung Cộng tham chiến, trực tiếp hợp đồng tác chiến bên cạnh bộ đội Bắc Hàn Cộng.
Trong cuộc chiến tranh VN hay còn gọi là chiến tranh Đông Dương II 1965-1975 cũng đã có bộ đội “chí nguyện quân” Trung Cộng và đoàn chuyên gia cố vấn quân sự Trung Cộng tham chiến ở các mặt trận Việt-Miên-Lào.
Thế thì trong cuộc chiến tranh Đông Dương I 1946-1954 hay người Việt Nam còn gọi là cuộc Kháng Chiến Chống Pháp, mà cái chiến công của Võ Nguyên Giáp đã được toàn bộ guồng máy tuyên truyền cộng sản trên thế giới và giới Truyền Thông Tây Phương Khuynh Tả và Cảm Tình Viên Cộng Sản đồng loạt và đồng thanh thổi phồng lên quá độ cái chiến thắng ở trận đánh Điện Biên Phủ cho đến nỗi nó trở thành một huyền thoại tuyệt vời huyễn hoặc làm say mê các nước nhược tiểu trong Thế Giới Thứ Ba. Nếu trong thời gian 1950-1953 chiến tranh Triều Tiên đã có bàn tay của đảng Trung Cộng thọc vào khởi động gây chiến, thì trong thời gian 1946-1954 chiến tranh Đông Dương I xảy ra một cách rõ ràng giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cộng sản cũng đã có mặt của Tướng Wei Guoqing (Vi Quốc Thanh) và đoàn chuyên gia cố vấn quân sự Trung Cộng cùng với những sĩ quan pháo binh và cao xạ phòng không Trung Cộng có nhiều kinh nghiệm trong chiến trường Triều Tiên nay được điều động sang Bắc Việt Nam giúp cho bộ đội Võ Nguyên Giáp đánh trận Điện Biên Phủ.
Lịch sử đã ghi nhận và cho thấy có những chuyện mà cả hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng đều to mồm lớn tiếng hô hào cổ võ khoe khoang, nhưng cũng có nhiều điều cả hai đảng cộng sản gian manh này cùng im hơi lặng tiếng cao độ. Cái im lặng thâm độc đó của hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng cũng dễ hiểu thôi, vì trong thời điểm thập niên 1950-1960 mặc dù Trung Cộng đứng đầu Thế Giới Thứ Ba và Tướng Vi Quốc Thanh cùng đoàn chuyên gia cố vấn quân sự Trung Cộng có mặt trong trận đánh Điện Biên Phủ nhưng họ bị bắt buộc phải im hơi lặng tiếng để tạo dựng nên cái huyền thoại Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh đặc điểm “chiến tranh du kích lấy ít đánh nhiều và chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân với phương tiện chiến tranh thô sơ chống lại một cường quốc thực dân” nhằm mục đích thúc đẩy các phong trào cộng sản địa phương nổi dậy võ trang bạo loạn ở các nước Á-Phi và Mỹ La Tinh trong Thế Giới Thứ Ba. Lịch sử cũng đã ghi nhận và cho thấy một lần nữa “Cái Im Lặng Thâm Độc” đó đã được lập lại trong chiến tranh Đông Dương II 1965-1975 khi mãi tới cuối năm 1975 thì “Đoàn Chuyên Gia Cố Vấn Quân Sự Trung Cộng” mới thực sự rời khỏi Việt Nam để trở về Hoa Lục. Cái vinh quang của một nước Việt Nam nhược tiểu đã chiến thắng hai cường quốc Pháp-Mỹ trong hai cuộc Chiến Tranh Đông Dương I, II được đảng Trung Cộng im lặng nham hiểm dành trọn cho đảng Việt Cộng vì một điều căn bản hợp lý là chiến tranh xảy ra trong khu vực Việt-Miên-Lào, không phải trên lãnh thổ Hoa Lục. Để đáp lại “Cái Im Lặng Thâm Độc” của đảng Trung Cộng là đảng Việt Cộng phải trả một cái giá xứng đáng thế nào cho Trung Cộng hài lòng.
Thật rõ ràng là vẫn còn có những chuyện mà chúng ta chưa biết hoặc không biết về hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng đã cấu kết với nhau thế nào, và chúng nó vẫn còn làm cho chúng ta nhức nhối và luôn luôn phải cảnh giác cao độ. Chúng ta và Nhân Dân Việt Nam có thể mong đợi điều gì ở “một thứ quân đội của một đảng cầm quyền tay sai và bán nước” đã đang và sẽ còn bị ngoại bang khống chế như tình hình hiện nay giữa hai đảng cầm quyền Trung Cộng và Việt Cộng?
Thời kỳ sau Đệ Nhị Thế Chiến trên thế giới được phân chia ra làm Thế Giới Thứ Nhất gồm các nước tư bản Tây Âu và Bắc Mỹ dẫn đầu là Hoa Kỳ. Thế Giới Thứ Hai gồm khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Sô dẫn đầu là Nga. Thế Giới Thứ Ba gồm đa số các nước Á, Phi, Mỹ La Tinh chậm tiến, lạc hậu, nghèo khổ, và là thuộc địa của các nước Âu Châu. Dẫn đầu Thế Giới Thứ Ba là Hoa Lục dưới sự lãnh đạo của đảng Trung Cộng. Có thể nhận diện được đảng Trung Cộng là một thực thể chính trị của một nước chậm tiến trong quá khứ luôn luôn nỗ lực dẫn đầu Thế Giới Thứ Ba thì chúng ta mới hiểu được ý đồ thâm độc của nó trong chiêu bài “Sống Chung Hoà Bình” và Phong Trào Phi Liên Kết Á-Phi do chính đảng Trung Cộng đã ra sức tuyên truyền cổ động lôi cuốn các nước Á-Phi theo về phía Trung Cộng.
Phi liên kết có nghĩa là không liên kết với Mỹ, cũng không liên kết với Nga, nhưng chỉ liên kết với Trung Cộng mà thôi. Cũng chính vì chuyện phi liên kết mà Liên Sô và Trung Cộng thỉnh thoảng đánh nhau đổ máu, thỉnh thoảng mắng nhau là “Bọn Xét Lại”, và khiến cho đàn em Việt Cộng phải tinh ranh khôn khéo đi dây giữa hai đàn anh cộng sản khổng lồ hung bạo này. Vào năm 1976 sau khi đảng Việt Cộng đã cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam thì mọi người nghe Lê Duẩn nói “chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và chúng ta đã thành công trong việc cắm lá cờ Quốc Tế Mác Lê trên toàn cõi Việt Nam”. Sau khi nghe tên đầu đảng Việt Cộng nói thế, thì những người Cảm Tình Viên Cộng Sản trong phong trào phản chiến Mỹ mới vỡ lẽ hiểu ra một bọn Việt Cộng tay sai cho Đế Quốc Đỏ xâm lăng thôn tính VNCH rồi áp đặt gông cùm chủ nghĩa cộng sản lên đầu của nhân dân Việt Nam. Họ đã hiểu thấm thía câu nói có tính cách cảnh cáo mà trước đây họ đã từng phản đối, “Don’t believe in what Communists said. Look into what Communists done.” Một cách đáng tiếc, những người Cảm Tình Viên Cộng Sản trong phong trào phản chiến Mỹ cũng đã góp phần tạo ra cái huyền thoại chiến thắng Mùa Xuân 1975 của quân đội Việt Cộng. Mặc dù đã quá muộn nhưng họ biết rõ ràng giữa hai quân đội của người Việt Nam, Quân Đội VNCH có chính nghĩa bảo vệ Tự Do cho nhân dân Việt Nam, và đã không làm tay sai cho Mỹ; còn Quân Đội Việt Cộng không có chính nghĩa bởi vì chỉ là công cụ của đảng Việt Cộng làm mất Tự Do của nhân dân Việt Nam, và đã làm tay sai cho cả hai Đế Quốc Cộng Sản là Liên Sô và Trung Cộng.
Những hình ảnh kinh hoàng của hàng triệu người dân Việt Nam đua nhau chạy ra Biển Đông để tìm Tự Do đã khiến cho Trái Tim của họ đau buốt. Vì cũng chính Trái Tim này, họ đã từng có nhiều cảm tình với Việt Cộng cho đến nỗi dám cả gan treo lá cờ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam trước sân Quốc Hội Mỹ. Cho nên sau khi nghe rõ ràng tên đầu đảng Việt Cộng là Lê Duẩn nói quân đội Việt Cộng đã đánh Mỹ là đánh cho Trung Cộng và Liên Sô, thì họ biết chắc chắn rằng họ đã bị sai lầm bởi tuyên truyền xảo trá của cộng sản.
Mặc dù các phong trào cộng sản địa phương nổi dậy có sự trợ giúp của Trung Cộng làm loạn chống chính phủ ở các nước Phi, Mã Lai, Thái Lan và Nam Dương đều đã bị chính quyền sở tại dập tắt, nhưng Trung Cộng vẫn còn nuôi hy vọng sử dụng được Việt Cộng làm một mũi nhọn xung kích tấn công vào tiền đồn của thế giới tự do là VNCH rồi sau đó sẽ đánh ngã các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và chiếm trọn Biển Đông là một nơi có thềm lục địa chứa nhiều khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt và những trục hải lộ quan trọng có thể nối liền bờ biển Hoa Lục.
Trong tháng Giêng năm 1974 Trung Cộng đã lợi dụng việc Mỹ bị ràng buộc vì đã ký kết Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 chấm dứt Chiến Tranh Việt Nam và không được phép trực tiếp can thiệp vào chuyện của VNCH nữa, nên Trung Cộng đã cưỡng chiếm một số đảo của VNCH trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông. Đến tháng Tư năm 1975 đang ở trong một hoàn cảnh khốn nạn của nhân dân miền nam Việt Nam, thay vì là một lời chính thức công khai yêu cầu Mỹ giải cứu VNCH đang trong tình hình nguy khốn vì Việt Cộng đã vi phạm hiệp định lấn chiếm thủ đô Sài Gòn, thì Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu lại tuyên bố chính thức công khai yêu cầu Mỹ phải lập tức rời khỏi Việt Nam để chuyện người Việt Nam tự giải quyết với nhau. Hậu quả của hai lời chính thức yêu cầu từ phía VNCH, một “giải cứu” và hai “đuổi đi”, rõ ràng rất khác nhau, và tình thế đã có thể thay đổi khác hơn cái cảnh chen lấn nhau lên máy bay di tản.
Thời gian sau này chúng ta được biết rõ là cho mãi tới cuối năm 1975 thì Đoàn Chuyên Gia Cố Vấn Quân Sự Trung Cộng mới rời Việt Nam để trở về Hoa Lục. Kết quả cụ thể của sự trợ giúp từ Trung Cộng trong chiến tranh Đông Dương II là Cộng Sản Pathet Lao chiếm chính quyền nước Lào và thân Trung Cộng. Ở Kampuchia thì Khmer Đỏ rập khuôn theo Trung Cộng cải tạo xã hội và gây tội diệt chủng kinh hoàng. Còn riêng đảng Việt Cộng sau khi đã cưỡng chiếm được miền nam thì vội vàng thống nhất hai miền nam bắc và đổi tên nước giống như Liên Sô. Năm 1976 Lê Duẩn còn hồ hởi phấn khởi đi xa hơn nữa trong việc đề nghị Kampuchia và Lào cùng với Việt Nam thành lập một Liên Bang Đông Dương theo mô hình Liên Sô và để đảng Việt Cộng dẫn đầu liên bang này. Khi Lào và Kampuchia không đồng ý thành lập Liên Bang Đông Dương thì đảng Việt Cộng quyết định đánh Khmer Đỏ để thay thế bằng một chính phủ mới thân với Việt Nam hơn.
Trong năm 1976 khi đảng Việt Cộng tỏ ý định thành lập Liên Bang Đông Dương theo đúng khuông mẫu của Liên Sô nhưng không thành công, và sau đó trong tháng Mười Hai năm 1978 các lực lượng võ trang Việt Cộng đã toàn lực nổ súng tấn công tiêu diệt toàn bộ Khmer Đỏ một đàn em cộng sản đang cải tạo xã hội người Miên theo mô hình Trung Cộng, thì đảng Việt Cộng đã làm cho đảng Trung Cộng rất tức giận. Đến tháng Hai năm 1979 đảng Trung Cộng đã khởi động một cuộc chiến tranh biên giới Hoa-Việt để dạy dỗ đảng Việt Cộng gồm có những kẻ mà đảng Trung Cộng cho rằng đã vong ân bội nghĩa quên sự giúp đỡ của Trung Cộng. Đảng Việt Cộng đã nhớ mãi cái “bài học đẫm máu” của đảng Trung Cộng dạy ở biên giới Hoa-Việt năm 1979 cho nên trong ngày 28/7/2012 vừa qua Bộ Quốc Phòng Việt Cộng, Quân Đội Việt Cộng, và Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Việt Cộng đồng loạt lên tiếng chúc mừng ngày thành lập Quân Đội Trung Cộng và tên Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Cộng và là nhân vật số 2 của đảng Việt Cộng đã phải nói cho vừa lòng đảng Trung Cộng như sau, “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính Phủ, Nhân Dân và Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”. Cái buồn cười là ngày chính thức kỷ niệm ngày thành lập Quân Đội Trung Cộng đúng ra là 01/8/2012. Tại sao đảng Việt Cộng lại vội vàng tổ chức tiệc chúc mừng trước đó tới bốn (4) ngày? Đảng Việt Cộng đã bộc lộ một thứ tâm lý lo sợ trong tình cảnh bị khống chế, bị lệ thuộc vào đảng Trung Cộng quá sâu đậm.
Vì thế mà chúng ta phải luôn luôn cảnh giác cao độ đối với cả hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng.
ĐỪNG TIN NHỮNG GÌ TRUNG CỘNG VÀ VIỆT CỘNG NÓI. HÃY NHÌN KỸ NHỮNG GÌ TRUNG CỘNG VÀ VIỆT CỘNG LÀM.
DON’T BELIEVE IN WHAT RED CHINA AND RED VIETNAM HAVE SAID. LET’S SCRUTINIZE WHAT RED CHINA AND RED VIETNAM HAVE DONE.
Kể từ khi Mỹ công bố những tấm ảnh chụp được từ vệ tinh phát hiện thềm lục địa Biển Đông và ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có những túi dầu thô rất lớn và có nhiều loại khoáng sản thì đảng Trung Cộng ngay sau đó đã ngang ngược xem cả Biển Đông là của riêng Trung Cộng, coi thường các nước có liên quan trong khu vực và bất chấp những luật lệ qui ước quốc tế. Chủ trương bành trướng của đảng Trung Cộng đã được thực hiện có hệ thống và thứ tự lần lượt theo thời gian. Đảng Trung Cộng đã bố trí nhiều cán bộ đảng xâm nhập vào các cộng đồng Hoa Kiều ở các nước có liên quan để sinh hoạt đảng và tổ chức những Đạo Quân Thứ Năm Trung Cộng chờ đợi thời cơ ứng dụng. Khi đảng Trung Cộng muốn chiếm trọn Biển Đông thì chắc chắn Trung Cộng phải dòm ngó tới Singapore một đảo quốc nhỏ rất cần thiết như cái yết hầu ở Eo Biển Singapore như cái cổ họng là một cửa ngõ giao thông cho các hải lộ quan trọng giữa Ấn Độ Dương và Biển Đông để đi qua Thái Bình Dương tới Mỹ Châu. Từ năm 2008 tại đảo quốc Singapore đã có những tiếng nói mạnh mẽ của người Singapore cảnh báo về chuyện đã có rất đông cán bộ đảng Trung Cộng xâm nhập vào các cộng đồng Hoa Kiều.
Thế nhưng, trong cuộc nói chuyện với các đại biểu của Diễn Đàn Hòa Bình Thế Giới/The World Peace Forum tại Bắc Kinh thì tên Tập Cận Bình/Xi Jinping nói, “Ngay cả khi Trung Quốc trở thành một quốc gia đã phát triển trong tương lai, nước này sẽ không bao giờ thực hiện âm mưu bá quyền; Trung Quốc luôn luôn tham dự vào sự phát triển kinh tế, hòa bình thế giới và những phát triển chung của nhân loại…”
Phó Chủ Tịch Trung Cộng nói nghe rất ôn hoà như thế, nhưng cùng thời gian này đảng Trung Cộng đã bổ nhiệm Phó Đô Đốc Wang Dengping làm Chính Ủy cho Hạm Đội Nam Hải/South Sea Fleet là nơi đang có tranh chấp về lãnh hải tại vùng Biển Đông. Wang Dengping là một người rất hiếu chiến. Wang Dengping sẽ có những biện pháp ngăn chặn các nước khác trong khu vực tranh chấp về chủ quyền.
Đảng Trung Cộng có thực hiện chủ trương bành trướng và âm mưu bá quyền hay không thì bằng những hành động vừa qua của Trung Cộng mọi người đều thấy rõ. Vào ngày 19/7/2012, Quân Ủy Trung Ương Trung Cộng chính thức thành lập Cơ Quan Chỉ Huy Quân Sự của Thành Phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Trung Cộng thành lập Thành Phố Tam Sa thuộc Hải Nam để quản lý những đảo Hoàng Sa và Trường trên Biển Đông.
Với tuyên bố chủ quyền Biển Đông và việc thành lập Thành Phố Tam Sa cho thấy đảng Trung Cộng ngang ngược ngoan cố không thừa nhận Luật Biển Quốc Tế. Chúng ta có thể hiểu rõ là đảng Trung Cộng muốn Thành Phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa là một sự cố đã rồi được giữ nguyên trạng/status quo. Sau này có tranh cãi gì nữa, thì Thành Phố Tam Sa vẫn giữ nguyên trạng trên đảo Phú Lâm. Đây là một hình thức cưỡng chiếm trắng trợn của đảng Trung Cộng. Đảng Trung Cộng đã đi ngược chủ trương giải quyết hòa bình vấn đề chủ quyền Biển Đông. Trong khi đảng Trung Cộng có những hành động ngang ngược coi thường Luật Biển Quốc Tế như thế, thì vào ngày 9/8/2012 đến 13/8/2012 tên Dương Khiết Trì, Ngoại Trưởng Trung Cộng đã đi tới 3 nước Nam Dương, Brunei, và Mã Lai để cam kết duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực Đông Nam Á.
Đây đúng là một vở hài kịch mà đảng Trung Cộng vừa ăn cướp vừa đóng vai bắt cướp trong khi đó đảng Việt Cộng vỗ tay la làng phản ứng có điều kiện, nhưng rồi mọi chuyện sẽ êm thấm tốt đẹp vì trong lòng những tên đầu đảng Việt Cộng vẫn ghi nhớ và mãi biết ơn quan thầy Trung Cộng! Thành Phố Tam Sa sẽ giữ nguyên trạng/status quo và đảo Phú Lâm của Việt Nam bị đảng Trung Cộng cưỡng chiếm hay được đảng Việt Cộng bí mật hiến dâng. Ở đây Nhân Dân Việt Nam có quyền thắc mắc và hỏi tại sao đảng Trung Cộng đã không chọn một hòn đảo nào của Đài Loan hay của Phi Luật Tân hay của Nam Dương trên Biển Đông để xây dựng Thành Phố Tam Sa mà lại chọn đảo Phú Lâm của Việt Nam? Và còn một điều rất tế nhị này nữa là những công trình xây dựng toà nhà thành phố hoành tráng, nhà cửa, cơ quan, trại lính, bến tàu, sân bay, vân vân… nhiều đến thế phải mất nhiều ngày tháng mới làm xong, thì tại sao đảng Việt Cộng và Tỉnh Ủy Khánh Hoà và Thành Ủy Đà Nẵng chỉ biết được sau khi đảng Trung Cộng đã làm lễ tuyên bố ra mắt thành phố hải đảo?
Tại sao trong khi Trung Cộng đang làm những công trình xây dựng thành phố kia thì đảng Việt Cộng lại không lên tiếng phản đối ngay để cho những công trình xây dựng phải ngưng lại? Cái âm mưu tạo ra một sự cố đã rồi để sau đó trở thành một nguyên trạng/status quo rất khó thay đổi, và như thế thì đảng Việt Cộng đã làm một cuộc hiến dâng tuyệt vời cho đảng Trung Cộng làm nên lịch sử Hoa Lục trong thế kỷ 21 có thêm một Thành Phố Hải Đảo xinh đẹp ở cực nam biển Nam Trung Hoa. Trong lịch sử Hán tộc ở Hoa Lục từ trước tới nay chưa từng có một thành tích chiếm đoạt của người một cách êm đẹp như thế! Nếu đảo Phú Lâm là của Đài Loan hoặc của Phi Luật Tân hoặc của Nam Dương thì đảng Trung Cộng đã không thể nào xây dựng được Thành Phố Tam Sa ở trên đảo đó được. Đúng như thế không?
Vẫn còn có nhiều chuyện cấu kết bí mật giữa hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng mà Nhân Dân Việt Nam vẫn còn chưa biết hoặc không được biết, và bọn chúng sẽ còn làm cho Nhân Dân Việt Nam nhục nhã đau khổ triền miên. Hơn nữa, lịch sử cũng đã cho thấy rõ ràng là sau khi đã ký kết Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 chấm dứt Chiến Tranh Việt Nam trong danh dự thì cả hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng đã bí mật cấu kết với nhau để làm nhục Quân Đội Mỹ và nước Mỹ trong biến cố 30/4/1975. Vì thế những gì chưa biết về sự cấu kết giữa hai đảng Trung Cộng và đảng Việt Cộng vẫn còn khiến cho nước Mỹ bức rức nhức nhối./.
Dr. Tristan Nguyễn
San Francisco, 19/8/2012

Không có nhận xét nào: