Pages

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

NHÂN MÙA QUỐC HẬN THÁNG TƯ ĐEN: NHÌN LẠI QUÊ HƯƠNG 38 NĂM SAU NGÀY “THẮNG CUỘC”



Nguyễn Thu Trâm - Gần đây, cuốn “BÊN THẮNG CUỘC” do một nhà báo, nguyên là cán binh cộng sản thời hậu chiến, viết và xuất bản tại Hoa Kỳ và phổ biến rộng rãi bằng cả sách giấy và sách điện tử, đã gây xôn xao trong trong các cộng đồng người Việt Nam tự do định cư tại nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như đối với cả người Việt Nam ở quốc nội. Cũng nhiều lời khen, lắm tiếng chê cho “BÊN THẮNG CUỘC” bởi khách quan mà nhìn nhận thì đấy là một trong những cuốn sách có nhiều thông tin từ cả hai phía. Nhưng theo đa phần những người đã đọc qua thì “BÊN THẮNG CUỘC” chỉ nói lên được một phần ba sự thật, còn lại chỉ toàn là dối trá, nhất là những thông tin liên quan đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đến các tướng lãnh, đến các chính khách và ngay cả đến các Quân Cán Chính cũng như đồng bào miền Nam trước cũng như sau ngày mất nước.
Tuy nhiên, cứ để những điều dối gian, láo toét của “BÊN THẮNG CUỘC” cho độc giả nhận diện, bởi trắng là trắng, đen là đen, trắng đen không thể nhập nhằng lẫn lộn được. Trong bài này, người viết chỉ muốn một lần nhìn lại quê hương đất nước 38 năm sau ngày “thắng cuộc” để nhẫm xem “BÊN THẮNG CUỘC” đã làm được gì cho đất nước cho dân tộc trong ngần ấy thời gian.
 
Tất cả mọi người đều nhận thức được rằng chính “BÊN THẮNG CUỘC” đã vi phạm hiệp định Geneva 1954 và hiệp định Paris 1973 khi xua quân xâm lược và bức tử chính thể Cộng Hòa tại miền Nam, xóa tên Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, hợp hiến, hợp pháp được Liên Hiệp Quốc và cộng đồng Quốc tế công nhận, khỏi bản đồ thế giới. Nhưng ít ai nhớ rằng không chỉ riêng Việt Nam Cộng Hòa, mà “BÊN THẮNG CUỘC” cũng bức tử luôn  cả một “cái chính phủ” “Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Độc Lập – Dân Chủ – Hòa Bình – Trung Lập” do chính “BÊN THẮNG CUỘC” nặn ra vào năm 1969, như một chiếc bánh vẽ nhằm hợp pháp hóa hành động xâm lược miền Nam Việt Nam của cộng quân Bắc Việt. Điều cần nhắc lại ở đây là trong hành động bạo ngược này của “BÊN THẮNG CUỘC” có được sự giúp sức của một số trí thức xuẩn động của Miền Nam gồm  Huỳnh Tấn Phát,  Phùng Văn Cung, Nguyễn Văn Kiết, Nguyễn Đóa, Trần Bửu Kiếm, Ông Trần Nam Trung, Nguyễn Thị Bình,  Phùng Văn Cung, Cao Văn Bổn, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Kiết, Dương Quỳnh Hoa và  Trương Như Tảng là toàn bộ nội các của cái chính phủ bị chú phỉnh đó. Đây là những con người hoang tưởng mà quá tham vọng quyền lực trong một chính phủ trung lập ở Miền Nam, nên đã đi “cầm cu cho chó đái” suốt từ tháng 6 năm 1969 cho đến tháng 7 năm 1976 là thời điểm mà đảng cộng sản Việt Nam tuyên bố rằng “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã hoàn thành vai trò trong cuộc chiến tranh Việt Nam và chính thức chấm dứt mọi hoạt động của mình.” tức là hô biến. Tất nhiên đó là thời điểm mà các nhân sỹ trí thức hoang tưởng và xuẫn động đó nhận ra rằng thực ra cái chính phủ rằng “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” và cái nội các của họ chỉ là một tổ chức ma, một tổ chức ảo và là một tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản và họ chỉ là những con rối được Bộ Chính Trị của cộng sản Bắc Việt điều khiển cho đến lúc vãn tuồng thì được quăng vào sọt rác. Họ cảm thấy đau như thiến, nhưng đành phải ngồi chơi xơi nước và ngậm bồ hòn mà chờ ngày đi theo các thánh tổ Mác-Lê thôi. Họ cảm thấy đau, đau lắm khi họ nhận ra bản thân là những trí thức đúng nghĩa mà lại bị mắc lừa những kẻ vô học xuất thân là những con người hoang đàng chi địa, những kẻ thiến heo, chăn bò hay cao nhất là phu gác ghi đường sắt.
 
Nhưng đau thương hơn thế nhiều nữa là hơn 1.100.000 người của “BÊN THUA CUỘC” là những nhân sỹ, trí thức bị “giáo dục lại” bởi những “cán bộ quản giáo” là những người rất ít học, tại hàng trăm trại cải tạo ở những chốn rừng thiêng nước độc mà không ít người vì không bao giờ “thuộc bài” nên đã phải ở lại đó để ‘học tập” đến 17 năm trời và trong số đó đã có đến 165.000 người đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn ở chung quanh những trại cải tạo đó vì đòn thù, vì bệnh tật, vì đói khát và vì bị hành hạ. Bên cạnh đó, “BÊN THẮNG CUỘC” cũng đã hành quyết hơn 95.000 người bị quy tội phản động, âm mưu lật đổ chính quyền hay “có nợ máu với nhân dân”.
Không lâu sau khi “Thắng Cuộc”, “BÊN THẮNG CUỘC” cũng đã xua đuổi hơn 1.500.000 thị dân bị quy là thành phần tư sản và tiểu tư sản đến khai hoang lập ấp cũng ở những vùng rừng thiêng nước độc, với mỹ từ “Đi Xây Dựng Vùng Kinh Tế Mới” nhường lại cơ ngơi của họ ở các đô thị cho gia đình, bà con của “BÊN THẮNG CUỘC” đến ở dùm, khiến cho con cái của họ phải thất học vì nghèo đói và vì không có bất cứ một cơ sở giáo dục nào ở giữa chốn thâm sơn cùng cốc đó, hệ lụy là hàng chục ngàn thị dân và con cái của họ cũng đã bỏ mình vì sơn lam chướng khí.
 
Nhiều người biết rằng vào mùa Xuân 1975 trước khi “BÊN THẮNG CUỘC” chiếm được Sài gòn thì nhiều cuộc công kích đã nổ ra tại nhiều tỉnh thành của miền Trung và Nguyên với hàng hàng cuộc pháo kích vào các đô thị gây ra những cái chết thương tâm của hàng trăm ngàn thường dân ngay khi họ đang trú ẩn tại nhà cũng như khi hàng đoàn dân lành đang gồng gánh con cái xuôi Nam, lánh nạn cộng sản thì hàng chục ngàn người gồm cả người già và trẻ em đã chết dọc đường Quốc Lộ 1 bởi đạn pháo của cộng quân, nhưng chắc ít người biết được rằng cũng vào thời gian đó, mà  chính xác là vào tháng 3 năm 1975, một cánh quân của “BÊN THẮNG CUỘC” đã truy đuổi và bắn trọng pháo trực xạ trong suốt nhiều ngày vào đoàn người di tản suốt theo chiều dài của Tỉnh lộ 7B từ Pleiku xuôi về Duyên Hải và đã nghiền nát hơn 160.000đồng bào, để lại nỗi tang thương muôn đời cho hàng trăm ngàn thân nhân của họ.
 
Chính vì vậy mà đồng bào miền Nam đã quá kinh hoàng khi phải đội trời chung với “BÊN THẮNG CUỘC”, nỗi kinh hoàng đó còn vượt trội hơn cả sự gian nguy, đói khát hay chết chóc ngoài biển cả khiến cả 3.000.000 người đã phải liều mình đi tìm sự sống trong cái chết mà theo thống kê của Liên Hiệp Quốc thì phải có đến phân nửa số người đi tìm tự do đó đã vĩnh viễn không đến được bến bờ nào cả mà xấp xỉ 1.500.000 người, cả nam phụ lão ấu, cả thân hào nhân sỹ là nguyên khí của quốc gia cũng đã phải nằm lại muôn đời với biển cả.
Nhưng nhiều điều đó vẫn chưa phải là mục tiêu tối thượng của “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” của “BÊN THẮNG CUỘC”, mà mục tiêu cuối cùng là biến Việt Nam thành một Tân Cương, một Tây Tạng ở Đông Nam Á và biến người Việt thành một sắc tộc thiểu số trên chính quê hương của mình và tự biến các lãnh đạo của đất nước trở thành những Thái Thú của Bắc Triều.
 
Để thực hiện mục tiêu đó, về mặt đối ngoại, “đảng và nhà nước” tăng cường hợp tác toàn diện với Bắc Kinh trên tinh thần 4 tốt và 16 chữ vàng, từng bước dâng nhượng đất đai vùng biên giới, đất rừng đầu nguồn cùng hàng triệu cây số vuông mặt nước biển và hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa cho mẫu quốc Trung cộng cùng với việc đón tiếp hàng  chục ngàn thương gia của Trung cộng sang điều hành các công ty xí nghiệp, các trung tâm thương mại để buôn bán các loại hàng hoá sản xuất từ bản quốc Trung cộng cho người tiêu dùng Việt nam, cùng với việc đón tiếp hàng trăm ngàn công nhân quốc phòng đến khai thác Bô xit ở Tây Nguyên, đến xây dựng các công trình, nhà máy do các công ty của Trung cộng thắng thầu. Trong khi đó tỉ lệ thất nghiệp thường xuyên của người Việt hiện lên đến hơn 70% dân số. Nhiều người phải mưu sinh bằng nghề nhặt rác, bán sức lao động tại các khu chợ cơ bắp với những công việc nặng nhọc nhưng rất thất thường nên cuộc sống của họ chỉ là những chuổi tháng ngày lo âu và đói khát triền miên… Lầu đài phố xá càng mọc lên sầm uất để càng tạo lên cái dáng vẻ phồn vinh dường như thể đất nước đã chuyển mình… thì số lượng người dân nghèo đói ăn, đứt bữa lại càng tang, nhiều người phải phá rừng phải chấp nhận làm kiếp lâm tặc để gia đình con cái không phải bị chết đói. Khắp các đô thị của Lào, Cambodge, Thái Lan, Mã lai, Tân Gia Ba… đâu đâu cũng có người Việt đi xin ăn, đi trộm cắp, móc túi hoặc đi bán trôn nuôi miệng. Từ các nước cùng Châu Á cho đến Châu Âu và mãi đến tận Châu Phi đâu đâu cũng có hằng trăm ngàn cho đến hàng triệu lao nô người Việt. Nhưng đó thực ra chưa phải là bộ mặt hoàn chỉnh của đất nước Việt Nam 38 năm sau khi đặt dưới quyền cai trị của “BÊN THẮNG CUỘC”, bởi dẫu chưa có những vụ cha mẹ phải ăn thịt con hoặc người phải ăn thịt người để sống như ở Bắc Hàn hay Trung Cộng, nhưng việc cha mẹ phải báncon đi làm nô lệ tình dục, anh chị em họ hàng, bè bạn và những kẻ đang yêu cũng lừa bán nhau qua biên giới, vào những động mại dâm là điều chưa bao giờ xãy ra trong xã hội miền Nam của 38 năm trước, nhưng lại quá phổ biến trong xã hội Việt Nam ngày nay. Nhưng đâu phải chỉ có thế thôi, bởi trong xã hội của “BÊN THẮNG CUỘC”, cái ác đã trở thành một thứ tôn giáo phổ thong mà số tín đồ của tôn giáo này đang gia tăng với cấp số nhân mà công bội là một gia số tỷ lệ thuận với số lượng đảng viên CS được phát triển mới hàng năm: Chưa bao giờ trong xã hội Việt Nam trước đây mà số những vụ việc cướp của giết người lại xãy ra thường xuyên và độ tuổi của kẻ thủ ác lại trẻ hóa như ở thiên đường XHCN của “BÊN THẮNG CUỘC”, hiện nay, những kẻ giết người cướp của có cả độ tuổi “thần tiên’ 13, 14 cả nữ lẫn nam, cả học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường lẫn những cán bộ viên chức nhà nước, kể cả công an, bộ đội, hay vợ con của những đảng viên cao cấp, mà lắm khi giết chết một mạng người chỉ để cướp một món vật dụng chẳng giá trị là bao như một chiếc điện thoại cầm tay, một chiếc xe máy đã qua sử dụng hay thậm chí chỉ là một món nữ trang mà đôi khi chỉ là hàng mỹ ký. Chưa bao giờ mà nền tảng đạo đức xã hội lại băng hoại như ở Việt Nam ngày nay: Người đứng đầu chính phủ thì tham ô những lại tới mức quốc dân phải gánh số nợ công lên đến hàng trăm tỷ đô la, nên nỗi người dân Việt vốn đã đói nghèo, vậy mà mỗi đầu người phải gánh số nợ xấp xỉ 1.000 đô la trong khi thu nhập mỗi ngày của họ chưa đến 1 đô la thì người dân Việt phải sống như thế nào đây? Các các quyền thuộc cấp thì ngoài ăn chơi sa đọa bằng tiền máu xương của nhân dân, còn thêm trò mua ấu dâm với những trẻ con chỉ ở độ tuổi bằng cháu nội, cháu ngoại. “Lương sư, hưng quốc” nhưng lại quá phổ biến nạn thầy giáo cưỡng dâm học trò lớp ba lớp bốn, hiệu trưởng thì môi giới cho nữ sinh trung học bán dâm cho quan chức cấp tỉnh, giảng viên đại học thì gạ tình sinh viên để đổi lấy điểm thi.
 
Có thể nói rằng xã hội Việt Nam sau 38 năm dưới sự cai trị của “BÊN THẮNG CUỘC”, đã quá loạn lạc đến độ không thể loạn lạc hơn: Vợ đốt chồng để dễ dàng thông dâm với các quan chức, chồng giết vợ phi tang xác dưới sông hay bạn bè đồng nghiệp chỉ vì bất hòa nhỏ trong cuộc sống, trong công việc mà giết hại lẫn nhau rồi chặt xác ra từng mảnh và cho vào bao bố để phi tang…  Đã có bao giờ trước đây hay có nơi nào trên thế giới hiện nay người ta coi sinh mạng của con người như rác, như rơm, để việc giết người, thậm chí là giết cả người thân yêu một cách quá đơn giản như giết một con sâu, con kiến, như ở Việt Nam hiện nay không? Phải chăng đây là nghiệp chướng của quê hương hay hay chỉ do sự suy đồi đạo đức của xã hội do con người không biết trân trọng nền giáo dục khai phóng và nhân bản mà chỉ coi trọng “tư tưởng và đạo đạo đức Hồ Chí Minh” và chỉ học theo “đạo đức Hồ chí Minh” khiến cho xã hội băng hoại và loạn lạc ra như thế?
 
Sao các trí tuệ đỉnh cao không thấy được những việc này để có thể có được những quyết sách khả dĩ có thể giúp chấn hưng nòi giống và phục hưng nền tảng đạo đức xã hội, mà chỉ đầu tư tiền bạc từ các nguồn thuế thu từ xương máu của nhân dân để mở mang nhà tù, để gia cố trại giam mà giam cầm những người yêu nước? Sao lại biến cả dân tộc Việt Nam thành những con người nô lệ, phải cúi đầu phải vâng phục, phải lắng nghe và tuyệt đối tin tưởng vào đảng cộng sản và sự lãnh đạo của đảng, cho dù đảng đang bán dần đất đai của tổ quốc và đang đặt dân tộc trước một hiểm họa bị đồng hóa và đặt đất nước nước trước một đại họa mất hoàn toàn vào tay giặc, để cho những người con của dân tộc nặng lòng với vận mệnh của quê hương đất nước, với sơn hà xã tắc phải lụy chốn lao tù? Con người ta hơn các loài vật khác là nhờ con người ta biết tư duy và biết sống theo lý trí chứ không phải bản năng. Vậy sao “BÊN THẮNG CUỘC” lại cấm không cho người dân Việt được tư duy, được sống và hành động theo lý trí, mà lại buộc cả 90 triệu đồng bào Việt Nam phải sống chỉ bằng bản năng rằng “đảng bảo đi là đi đảng bảo đứng là đứng”? Và ngay cả những người Việt Nam đã vượt thoát mọi sự kiềm tỏa của “BÊN THẮNG CUỘC”, đã định cư ở các nước tự do hàng thập kỷ nay rồi sao lại cấm đoán, không cho họ tham gia vào các đảng phái chính trị nào? Sao lại bắt bớ, lại giam cầm  “những khúc ruột ngàn dặm” đó khi họ về lại thăm lại cố hương? Sao lại quy kết cho họ tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền” như đã từng quy kết cho những trí thức, sỹ phu, những người ở quốc nội yêu nước mà không yêu chế độ cộng sản? Những người nặng lòng với đất nước đó cũng đã từng bị kết tội “âm mưu lật đổ chính quyền” hay “tuyên truyền chống nhà nước” hay “làm giảm lòng tin của nhân dân đối với đảng”? Xin thưa rằng cả 90 triệu người dân Việt Nam hiện nay chẳng còn ai có một chút ít lòng tin nào vào đảng cộng sản và chế độ cộng sản cả! Cả thế giới loài người đều đã biết quá rõ cộng sản là gì rồi. Và người Việt Nam cũng đã biết được điều này. Tiếc rằng sau 38 năm cầm quyền, “BÊN THẮNG CUỘC” đã biến đất nước Việt Nam thành một nhà tù lớn với hàng chục ngàn nhà tù nhỏ để giam cầm, để đọa đày những con dân đất Việt nặng lòng với dân tộc với quê hương, cho nên quê hương Việt Nam mới ngày càng điêu tàn, dân tộc Việt Nam mới ngày càng đớn hèn và nhu nhược như thế này!
Đây là một bức tranh toàn cảnh của quê hương Việt Nam 38 năm sau ngày “THẮNG CUỘC”. Và ai mà biết được rằng sau 38 năm nữa, liệu người Việt trên quê  mình có còn được phép nói tiếng Việt nữa hay không!
Ngày cuối năm Nhâm Thìn
Nguyễn Thu Trâm, 8406

Video: ĐỪNG KHOE TÔI… HÃY CHỤP DÙM TÔI…

Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.
Đừng khoe tôi những yến tiệc linh đình,
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.
Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.
Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.
o O o
Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan
Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt nam,
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.
Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.
Chụp giùm tôi số phận những thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.
Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.
Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.
Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những anh hùng không uốn gối
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.
Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.
Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.
o O o
Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.
Chiếc thuyền con, ca nước lã cầm hơi,
Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.
Rồi tha phương lữ thứ,
Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.
Lòng người chóng nguôi ngoai,
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ!
Trần Văn Lương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét