Pages

Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2013

HOA KỲ, TRUNG HOA VÀ NỖI ÁM ẢNH BÁ QUYỀN

Robert B. Zoellick
BS Hồ Hải dịch

 Cảm ơn anh Vũ Thư Hiên đã giới thiệu bài này, và muốn tôi dịch nó ra cho người trẻ Việt Nam thấu hiểu mọi vấn đề thế giới và trong nước. Tôi đã dịch xong, nhưng vì bài rất dài, gồm 5 phần, tôi sẽ đưa lên từng phần một, để mọi người bàn luận cho chiến lược mới Mỹ Trung có ảnh hưởng đến khu vực Đông Nam Á, và trực tiếp ảnh hưởng đến bán đảo Đông Dương và biển Đông.
*
Bài viết của ông Robert B. Zoellick, cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới vừa mới từ chức và mãn nhiệm 30/6/2012, cựu thứ trưởng ngoại giao và đại diện thương mại Hoa Kỳ, hiện đang là nghiên cứu sinh danh dự tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson(Peterson Institute for International Economics) và một thành viên cao cấp tại Trung tâm Belfer(Belfer Center) của Đại học Harvard. Ông viết bài này cho Diễn đàn Thượng Hải tại Đại học Phúc Đán(復旦大學: Fudan University) ở Thượng Hải ngày 25 tháng 5 năm 2013 vừa qua, trước khi Hội nghị thượng đỉnh Sunnylands diễn ra tại California từ 07-09/6/2013. 
HOA KỲ, TRUNG HOA VÀ NỖI ÁM ẢNH BÁ QUYỀN
Phần 1: Đặt vấn đề
Phần 4: Về an ninh
Phần cuối: Những ý tưởng mới
*
Năm ngoái, trong chuyến thăm Hoa Kỳ, Chủ tịch Trung Hoa Tập Cận Bình – lúc đó còn là Phó chủ tịch(ND) – đã giới thiệu ý tưởng về một “loại hình mới cho mối quan hệ quyền lực vĩ đại”. Trong tháng ba năm nay, để đáp ứng rõ ràng về vấn đề này, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Obama, ông Tom Donilon(**), đề nghị quan tâm đến việc xây dựng “một mô hình mới cho mối quan hệ giữa một quyền lực đã tồn tại trước đó và một quyền lực mới nổi”. Tháng Sáu này, hai vị đứng đầu Mỹ – Trung đã gặp nhau tại California để tìm hiểu xem liệu triển vọng chiến lược của họ có thể được hòa giải.
Tôi nghi ngờ rằng khái niệm của Chủ tịch Tập phản ánh về vấn đề nghiên cứu các lãnh đạo cấp cao của lịch sử. Tại cuộc họp năm ngoái về Đối thoại Kinh tế và Chiến lược Mỹ-Trung, cựu chủ tịch Hồ Cẩm Đào cho biết: “Chúng tôi phải chứng minh rằng niềm tin truyền thống mà những nước lớn đang bị ràng buộc trong việc tham gia vào những cuộc xung đột là sai, và [thay vào đó chúng ta nên] tìm kiếm cách thức mới để phát triển quan hệ giữa các nước lớn trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế”.
Tại Hoa Kỳ, giáo sư Graham Allison và Joseph Nye ở Đại học Harvard đã gọi thách thức này như “cái bẫy Thucydides”: trong việc giải thích nguyên nhân của cuộc chiến Peloponnesian vĩ đại của thế kỷ thứ Năm trước Công nguyên – nội chiến của Đế chế Hy Lạp kéo dài 27 năm từ 431 đến 404 trước Công Nguyên đã kết thúc một thời đại hoàng kim của Hy Lạp (Người Dịch) – Thucydides đã chỉ ra rằng sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ hãi nó lấy cảm hứng từ thành phố cổ Sparta. Trong nhiều thế kỷ các học giả đã cân nhắc về việc chuyển đổi quyền lực đã dẫn đến những căng thẳng cạnh tranh như thế nào, mà đôi khi kiểm soát được, đôi khi lại không kiểm soát được để dẫn đến xung đột.
Bài viết này sẽ đặt ra một câu hỏi: Điều gì có thể là bản chất của một loại hình mới cho mối quan hệ quyền lực vĩ đại giữa Trung Hoa và Hoa Kỳ?
Kevin Rudd, cựu thủ tướng và bộ trưởng ngoại giao của Úc, cũng đã đưa ra chủ đề này trong một loạt bài phát biểu rất chu đáo. Cách tiếp cận của ông chỉ ra sự cần thiết phải tăng cường đối thoại và nỗ lực hợp tác.
Tôi sẽ bổ sung cho những quan sát của ông Rudd bằng cách gợi ý các chính sách cụ thể mà có thể giúp vượt qua những cản trở cho loại hình mới này của mối quan hệ. Tôi sẽ tập trung đặc biệt về các vấn đề kinh tế và an ninh, cũng như những trở ngại mà Trung Hoa và Mỹ cần phải giải quyết.
Năm 2005, tôi đề nghị rằng Hoa Kỳ nên khuyến khích Trung Hoa trở thành một “cổ đông có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế của một bối cảnh hỗ trợ cho hiện đại hóa và tăng trưởng kinh tế phi thường của Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình đã khôn ngoan nhận ra rằng mở cửa Trung Hoa có thể tận dụng hệ thống quốc tế hiện có từ thương mại đến đầu tư, công nghệ, phát triển và an ninh. Thông qua đức tính cần mẫn của người dân Trung Hoa, Đặng Tiểu Bình đã được chứng minh là đúng.
Tuy nhiên, hệ thống quốc tế của những năm cuối thế kỷ XX đã phát triển với thời đại mới. Những trách nhiệm trong việc bảo vệ và những lợi ích hệ thống mở rộng – và thích ứng với những thách thức mới – cần được xem xét như là một phần của những lợi ích của quốc gia có quyền lực vĩ đại. Tuy nhiên, Hoa Kỳ, Trung Hoa và những nước khác sẽ không thể thích ứng với một hệ thống phát triển thành công, nếu họ không cùng nhau chia sẻ một cam kết cơ bản với hệ thống quốc tế.
Một số nhà quan sát tin rằng Trung Hoa đã hành động như một “cổ đông bất đắc dĩ”, đặc biệt là khi nói đến chuyển dịch lợi ích chung vào các chính sách bổ sung. Trong suy đoán lý do tại sao, các nhà quan sát đã đưa ra một câu hỏi: liệu có phải là Trung Hoa vẫn còn đang tranh luận hoặc đang thích nghi với vai trò của nó không? Hoặc là, như một số phát ngôn của Trung Hoa cho thấy, có phải Trung Hoa muốn có một hệ thống mới? Nếu như vậy, thì hệ thống mới đó sẽ như thế nào? Có phải Trung Hoa muốn thêm nội dung tư tưởng khác trong những quan hệ quốc tế – mà những tư tưởng khác đó sẽ đại diện cho một sự thay đổi từ chính sách của Trung Hoa trong quá khứ?
Những bất trắc đã tạo ra một truy vấn quan trọng khác nữa là: có phải những nhà chỉ trích Trung Hoa và cả những phản ứng của những nước khác, về hệ thống quốc tế hiện nay được coi là phải trả giá vì những mục tiêu mới của Trung Hoa? Không phải ngẫu nhiên mà, những câu hỏi này đang phát ra từ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Vì vậy, trong việc xem xét một loại hình mới khả thi cho mối quan hệ quyền lực vĩ đại, chúng ta cần làm việc một cách nghiêm túc, trao đổi sâu về việc liệu Trung Hoa và Hoa Kỳ có chia sẻ được những lợi ích chế độ chung – cũng như về những chính sách đặc biệt. Phụ thuộc lẫn nhau, tự nó, sẽ không vượt qua những vấn đề và các mối đe dọa của thế kỷ XXI. Chúng ta cần phải xem xét về kinh tế và an ninh mạng trong chính sách đối ngoại hiện nay như thế nào.
Ghi chú:
(*)Thucydides: là một nhà sử học Hy Lạp và Athens. Ông nghiên cứu về cuộc chiến Peloponnesian ở Hy Lạp vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên xảy ra giữa 2 thành phố Sparta và Athens. Ông không đem các vị thần Hy Lạp vào trong nghiên cứu, nên ông được mệnh danh là cha đẻ của khoa học lịch sử thế giới. Ông cũng đã được cho là cha đẻ của trường phái chủ nghĩa hiện thực chính trị (political realism). Về nghiên cứu hành vi chính trị của con người, ông cho thấy một sự thú vị trong việc phát triển sự hiểu biết về bản chất con người nhằm giải thích hành vi con người trong những cuộc khủng hoảng.
Bản đồ Hy Lạp hiện nay
Bản đồ Hy Lạp cổ thời nội chiến Peloponnesian từ 431 đến 404 trước Công nguyên.
Vào thế kỷ thứ V trước Công Nguyên có Liên đoàn Peloponnesian nổi lên ở thành phố Sparta phía Nam nhìn ra Địa Trung Hải của Hy Lạp. Nỗi ám ảnh mất quyền lực của triều đình Hy Lạp ở Athens đã gây ra cuộc nội chiến của Đế chế Hy Lạp kéo dài 27 năm từ 431 đến 404 trước Công Nguyên. Nó đã kết thúc bằng suy tàn và sụp đổ một thời đại hoàng kim của Hy Lạp.
Tác giả bài viết lấy tên ông cho tựa bài viết ý muốn nói quan hệ Mỹ – Trung ngày nay như nỗi ám ảnh của cuộc nội chiến Hy Lạp, nếu không có một sự hiểu biết và cùng nhau gầy dựng một liên minh hợp tác của hai quyền lực lớn nhất hiện nay, thì 2 quyền lực này sẽ sụp đổ.
(**)Tom Donilon: là phó cố vấn an ninh Hoa Kỳ nửa đầu nhiệm kỳ đầu của tổng thống Obama, Đến tháng 10/2010 thì trưởng cố vấn an ninh quốc gia James Jones từ chức, thì Tom Donilon trở thành trưởng cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ cho đến hôm nay. Hiện cố vấn an ninh quốc gia cao cấp của tổng thống Hoa kỳ có 3 thành viên là Tom Donilon, Susan Rice mới vừa bổ nhiệm và Samantha Power.Đón đọc phần 2: Những vấn đề còn tồn tại của Hoa Kỳ và Trung Hoa
*
*
Robert B. Zoellick
BS Hồ Hải dịch
Thứ tư, ngày 26 tháng sáu năm 2013
Bài viết của ông Robert B. Zoellick, cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới vừa mới từ chức và mãn nhiệm 30/6/2012, cựu thứ trưởng ngoại giao và đại diện thương mại Hoa Kỳ, hiện đang là nghiên cứu sinh danh dự tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson(Peterson Institute for International Economics) và một thành viên cao cấp tại Trung tâm Belfer(Belfer Center) của Đại học Harvard. Ông viết bài này cho Diễn đàn Thượng Hải tại Đại học Phúc Đán(復旦大學: Fudan University) ở Thượng Hải ngày 25 tháng 5 năm 2013 vừa qua, trước khi Hội nghị thượng đỉnh Sunnylands diễn ra tại California từ 07-09/6/2013. 
Thành công kinh tế đáng kinh ngạc của Trung Hoa – phát triển kinh tế trung bình 10 phần trăm một năm trong ba mươi năm, đã đưa nó trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhà kinh doanh lớn thứ hai của hàng hóa và dịch vụ, và người nhận lớn thứ hai của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Nhưng Hoa Kỳ vẫn chiếm khoảng 22 phần trăm của GDP toàn cầu. Mặc dù tăng năng suất là khó khăn hơn để đạt được các nền kinh tế tiên tiến chuyển sang biên giới công nghệ, những đổi mới gần đây của Mỹ về năng lượng, phần mềm và mô hình kinh doanh cho thấy một nền kinh tế đã phát triển mà vẫn giữ được một khả năng lạ thường để thích nghi và tái sinh cho bản thân. Trái ngược với hầu hết các nền kinh tế tiên tiến khác – và thậm chí so với nhiều nước đang phát triển – triển vọng dân số Mỹ là tích cực một cách khiêm tốn. Hội nhập của Mỹ với các đối tác ở Bắc Mỹ cũng cho thấy triển vọng tốt.
Tuy nhiên, một loạt các chuyển dịch cơ cấu toàn cầu, đặc biệt là sự trỗi dậy nhanh chóng của các nền kinh tế đang phát triển, cùng với sự phục hồi toàn cầu bị trở ngại từ cuộc Đại suy thoái, đòi hỏi phải thay đổi nhiều hơn cho Trung Hoa, Hoa Kỳ và thế giới.
Những thách thức phát triển của Trung Hoa được mô tả đầy đủ trong báo cáo “Trung Hoa năm 2030” vào năm ngoái do Trung tâm Nghiên cứu Phát triển của Hội đồng Nhà nước cùng với các Bộ khác của Trung Hoa và một nhóm quốc tế từ Ngân hàng Thế giới.
Các nhà nghiên cứu đã tìm cách giải quyết vấn đề cơ bản về cách Trung Hoa có thể tránh được cái gọi là bẫy thu nhập trung bình – xu hướng cho năng suất và tăng trưởng chậm lại sau khi các nền kinh tế đang phát triển đạt được mức thu nhập trung bình. Các đồng nghiệp Trung Hoa của chúng tôi một cách khôn ngoan nhận ra rằng dự báo tăng trưởng theo đường thẳng hiếm khi xảy ra.
Xem xét vấn đề này trong bối cảnh lịch sử: khi Ngân hàng Thế giới xem xét lại hiệu suất của 101 nền kinh tế mà Ngân hàng phân loại khi 101 quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 1960, thì trong đó phát hiện ra rằng đến năm 2008 – gần như năm mươi năm sau đó – chỉ có 13 quốc gia đạt được thu nhập cao. Và một trong số đó là Hy Lạp!
Trung Hoa phụ thuộc nhiều vào đầu tư tài sản cố định, chủ yếu là đầu tư công để tính vào tăng trưởng, và tăng trưởng nhờ xuất khẩu. Trung Hoa sẽ cần phải thích ứng với chuyển dịch cơ cấu toàn cầu: ngày nay những nền kinh tế đang phát triển chiếm một nửa sản lượng toàn cầu – và con số thực sự có khoảng 2/3 của tăng trưởng toàn cầu trong 5 năm qua, Trung Hoa có thể không còn dựa vào mô hình tăng trưởng chủ yếu vào việc bán hàng cho các nền kinh tế đã phát triển như trong quá khứ.
Trung Hoa cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng dựa vào nhu cầu và tiêu dùng nội địa lớn hơn – tức là dựa vào vai trò lớn hơn ở khu vực tư nhân. Đầu tư vào vốn con người sẽ ngày càng quan trọng, cũng như việc khuyến khích tinh thần sáng tạo của người Trung Hoa tài năng. Sự chuyển đổi này cũng có thể cho phép nhiều người Trung Hoa hưởng phúc lợi từ những thập niên siêng năng của họ, làm như vậy, sẽ giúp gia tăng tiêu thụ nội địa có thể làm dịu những căng thẳng xã hội.
Báo cáo “Trung Hoa 2030″ vạch ra một con đường cho một mô hình tăng trưởng mới, trong đó bao gồm: hoàn thành việc chuyển đổi sang thị trường đất đai, lao động, doanh nghiệp, tài chính; di chuyển đến một hệ thống đổi mới mở, để cho phép Trung Hoa di chuyển lên chuỗi giá trị; cung cấp cơ hội bình đẳng và những giá trị bảo vệ xã hội cơ bản cho tất cả người dân Trung Hoa, cơ cấu lại hệ thống tài chính để phù hợp với trách nhiệm về doanh thu và chi phí ở các cấp độ khác nhau của chính phủ; làm sạch môi trường và trả giá cho tình trạng tài nguyên cạn kiệt; và xem xét các tác động quốc tế của sự chuyển dịch cơ cấu của Trung Hoa.
Tôi không mong đợi các nhà lãnh đạo mới của Trung Hoa phải hành động theo kiểu cải cách “bùng nổ”(“Big Bang”). Tôi nghĩ rằng họ – và các lãnh đạo ở các tỉnh – sẽ theo đuổi thử nghiệm thực tế. Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chỉ ra đô thị hóa như một kênh mà thông qua đó Trung Hoa có thể theo đuổi sự thay đổi kết nối, kết hợp các vấn đề về lao động, đất đai, doanh nghiệp, giáo dục và các dịch vụ khác, tiêu thụ, mức sống, cơ sở hạ tầng mới, nhà ở, phát triển bền vững, tài chính và quản trị.
Chỉ bằng cách công nhận sự cần thiết phải thay đổi đã là một bước tiến lớn. Ngược lại, hơn hai mươi năm trước, tôi theo dõi hệ thống chính trị và quan liêu của Nhật Bản đi chống lại sự cần thiết của một mô hình tăng trưởng mới. Thủ tướng Shinzo Abe bây giờ phải theo đuổi những bước đi táo bạo để khắc phục sức đề kháng chuyển đổi của Nhật Bản.
Tuy nhiên, thúc đẩy cải cách tiếp theo của Trung Hoa sẽ khó khăn. Lãnh đạo Trung Hoa sẽ cần phải cân bằng chiến lược tăng trưởng trong ngắn hạn, chủ yếu dựa trên cơ cấu kinh tế hiện nay, với sự cần thiết phải thay đổi cấu trúc cho sự tăng trưởng trong tương lai.Đón đọc phần 3: Một loại hình mới về quan hệ quyền lực vĩ đại
*
*
Robert B. Zoellick
BS Hồ Hải dịch
Thứ năm, ngày 27 tháng sáu năm 2013
Bài viết của ông Robert B. Zoellick, cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới vừa mới từ chức và mãn nhiệm 30/6/2012, cựu thứ trưởng ngoại giao và đại diện thương mại Hoa Kỳ, hiện đang là nghiên cứu sinh danh dự tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson(Peterson Institute for International Economics) và một thành viên cao cấp tại Trung tâm Belfer(Belfer Center) của Đại học Harvard. Ông viết bài này cho Diễn đàn Thượng Hải tại Đại học Phúc Đán(復旦大學: Fudan University) ở Thượng Hải ngày 25 tháng 5 năm 2013 vừa qua, trước khi Hội nghị thượng đỉnh Sunnylands diễn ra tại California từ 07-09/6/2013. 
Một loại hình mới của mối quan hệ quyền lực vĩ đại có thể dự đoán những thay đổi kinh tế và thậm chí cả những thể chế chính trị ở phía trước. Trung Hoa và Hoa Kỳ cần phải xác định những lợi ích chung trong việc hỗ trợ cải cách cơ cấu và “tái cân bằng” ở cả hai quốc gia.
Xem xét tìm kiếm cái gọi là một phương pháp tiếp cận hợp tác kinh tế mới có thể đòi hỏi:
• Ví dụ, để tăng năng suất, tạo việc làm, mở rộng cơ hội kinh doanh và tăng tiêu dùng, Trung Hoa cần mở sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ. Vai trò của khu vực tư nhân ở Trung Hoa nên mở rộng. Ngoài ra, Mỹ và các doanh nghiệp nước ngoài và các nhà đầu tư có thể mang lại bí quyết(know-how), công nghệ và kết nối toàn cầu để hỗ trợ cho lĩnh vực dịch vụ của Trung Hoa mở rộng. Sự hợp tác này có thể giúp làm giảm bớt sự mất cân bằng thương mại và những xung đột trong khi thúc đẩy lợi ích chung.
• Chương trình đổi mới của Trung Hoa cần phải kết hợp giáo dục, công nghệ, đầu tư mạo hiểm, tác động của thế giới mạng, bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ tốt hơn, một lần nữa, sự tham gia của Mỹ có thể hỗ trợ trong khi mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ và những quốc gia khác cũng vậy.
• Phải thực hiện mạnh vấn đề an sinh xã hội ở Trung Hoa, nhưng phải linh hoạt bằng cách có thể rút ra từ kinh nghiệm quốc tế về vấn đề bảo hiểm, tiết kiệm và cung cấp các mô hình dịch vụ. Lần lượt, phía Hoa Kỳ cũng cần phải giải quyết các vấn đề về chi phí, tài chính và các ưu đãi của mạng lưới an sinh đắc đỏ cho người dân Hoa Kỳ càng ngày càng lão hóa và đông hơn.
• Nhu cầu thực phẩm của Trung Hoa – và bảo tồn nguồn nước – được hỗ trợ bởi các sản phẩm, công nghệ và hệ thống thiết bị của Mỹ và nước ngoài, bao gồm cả những tập trung vào an toàn thực phẩm mạnh mẽ và chất lượng hơn. Thị trường cởi mở nên mở rộng bổ sung các nỗ lực kinh doanh nông nghiệp xuyên Thái Bình Dương trong khi cũng tăng cường các tiêu chuẩn sống.
• Có nhiều cơ hội lẫn nhau trong các lĩnh vực năng lượng và môi trường – bao gồm cả hạ lượng khí thải cacbon, công nghệ và hệ thống thay thế, và kinh nghiệm để làm sạch không khí, nước, đa dạng sinh học và sử dụng đất.
• Tất cả những sự thích nghi cần phải được hỗ trợ bởi thị trường sâu hơn, đa dạng hơn và uyển chuyển hơn để tiết kiệm, tạo ra tín dụng và đầu tư – trong khi đảm bảo quản lý khủng hoảng an toàn, lành mạnh và hiệu quả. Trung Hoa cần phải chuyển từ một quốc gia của những người chắc bóp gửi tiết kiệm phòng thân những đồng tiền lợi nhuận tối thiểu để trở thành một quốc gia của những người dân là những nhà đầu tư có một vai trò trong phát triển khu vực tư nhân của Trung Hoa.
• Cuối cùng, Trung Hoa, Hoa Kỳ và những quốc gia khác cần khuôn khổ tốt hơn để khuyến khích đầu tư chéo trong khi quản lý an ninh quốc gia và những vấn đề nhạy cảm khác.
Trong một nghĩa nào đó, các nhà lãnh đạo thế kỷ XXI của Trung Hoa có thể nhìn vào cái logic của Đặng Tiểu Bình và Chu Dung Cơ: là khai thác các thị trường, các quy tắc, sự cạnh tranh, những cơ hội và các tiêu chuẩn của nền kinh tế quốc tế để thúc đẩy tiến bộ và cải cách cơ cấu Trung Hoa.
Hoa Kỳ cũng cần cải cách cơ cấu – đặc biệt là trong hệ thống lương hưu và chăm sóc y tế, cải cách thuế, quan hệ đối tác công-tư cho cơ sở hạ tầng, và giáo dục phải được kết nối với các kỹ năng và công việc. Những Chương trình quyền được chi phí cho công dân Mỹ hiện nay cho mỗi người đàn ông, phụ nữ và trẻ em ở Mỹ là 7,400 đô la một năm, nhiều hơn thu nhập bình quân đầu người của Trung Hoa.
Trung Hoa và Mỹ đều có những lý do tự quan tâm tốt để theo đuổi cải cách cơ cấu và tái cân bằng toàn cầu. Tuy nhiên, sự hợp tác có thể thúc đẩy triển vọng chung và nhiều khả năng thành công. Hơn nữa, hiệu quả của cải cách Trung Hoa và Mỹ sẽ thúc đẩy những điều kiện kinh tế toàn cầu và tăng cường khả năng cải cách cơ cấu ở những nơi khác.
Cảm giác của tôi là Đối thoại Kinh tế Mỹ-Trung Hoa, cho dù là theo các tiêu đề “chiến lược”, kết nối thương mại, G-20, APEC, WTO hoặc các diễn đàn khác – đã trở nên quá cứng nhắc, phòng thủ và thiếu óc sáng tạo.
Chương trình nghị sự tăng trưởng mới của Trung Hoa và sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ cung cấp một cơ hội. Cả hai bên cần phải tìm hiểu các kết nối để đôi bên cùng có lợi. Không phải tất cả những ý tưởng sẽ đều tỏ ra là hoàn toàn khả thi. Nhưng một loại hình mới của mối quan hệ có thể tìm kiếm với những giải pháp và những quá trình mở ra sự sáng tạo.
Hơn nữa, hai cường quốc kinh tế, đã phát triển và đang phát triển, Hoa Kỳ và Trung Hoa cần phải xem xét hợp tác như thế nào để có thể thúc đẩy cải thiện hệ thống khu vực và toàn cầu.
Ví dụ, chuyển đổi để mở ra lĩnh vực dịch vụ của Trung Hoa – vốn là những lĩnh vực mang lại phúc lợi cho chính Trung Hoa – có thể được triển khai để thúc đẩy các cuộc đàm phán tự do hóa lĩnh vực dịch vụ trong Tổ chức Thương mại Thế giới. Hiệp định công nghệ thông tin của WTO (ITA*) trong những năm 1990 đã chứng tỏ là một lợi ích tuyệt vời để tìm nguồn cung ứng, chuỗi cung ứng toàn cầu, hệ thống hậu cần, phục vụ cho đổi mới và cho người tiêu dùng. Các thành viên WTO hiện đang thảo luận một gói ITA thứ hai để cập nhật danh sách sản phẩm cũ và thêm các dịch vụ. Trung Hoa và Hoa Kỳ cần phải được thúc đẩy nỗ lực này. Có những cơ hội khác nữa, từ các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại đến các quy định mua sắm của chính phủ cởi mở hơn. Áp lực sẽ tăng lên để làm rõ các quy tắc cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nhà nước. Một vài năm trước, các quỹ lợi ích quốc gia đã chứng minh rằng các bước theo hướng gia tăng tốt nhất là thực hiện minh bạch và khuyến khích, minh bạch và khuyến khích có thể chống lại sự lo lắng trong khi cải thiện được hiệu suất.
Hoa Kỳ và Trung Hoa cũng cần phải được thảo luận về hệ thống tiền tệ quốc tế trong tương lai. Hệ thống đó có để điều chỉnh cho cả hai sự thay đổi toàn cầu và hậu quả của chính sách tiền tệ bất thường hiện nay. Thế giới cần phải được canh chừng đối với nguy cơ của sự cạnh tranh bằng hạ giá tiền tệ. Khi Trung Hoa toàn cầu hóa đồng nhân dân tệ và chuyển động hướng tới một tài khoản vốn mở, một kỷ nguyên mới của các mối quan hệ quyền lực vĩ đại sẽ đòi hỏi các nền kinh tế lớn để quản lý sự phát triển hướng tới một hệ thống tiền tệ dự trữ đa chủng loại.
Trung Hoa và Hoa Kỳ có kinh nghiệm và quan điểm phát triển có thể hỗ trợ các nước khác – cho dù thông qua phát triển ngồi tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, mở rộng sản xuất và chuỗi cung ứng, phát triển lĩnh vực dịch vụ, cơ sở hạ tầng hay đầu tư. Trung Hoa và Hoa Kỳ cần phải có những lợi ích chung trong tăng trưởng toàn diện, quản trị tốt, minh bạch và chống tham nhũng, thương mại và tránh chu kỳ bùng nổ và phá sản. Kỷ nguyên mới này có thể thúc đẩy hợp tác với các tổ chức đa phương và mạng lưới khu vực tư nhân.
Cũng vậy, chủ đề môi trường cần phải được khám phá – từ bảo tồn động vật hoang dã và đa dạng sinh học đến phát triển công nghệ giảm khí thải carbon.
Thật vậy, nếu Hoa Kỳ và Trung Hoa có mâu thuẫn về các chủ đề đòi hỏi phải có sự hợp tác qua những biên giới của quốc gia, hệ thống quốc tế là không thể hoạt động hiệu quả; ngược lại, nếu Trung Hoa và Mỹ có thể hợp tác, ngay cả khi chỉ từng bước, những quốc gia khác có thể tham gia.
Chương trình nghị sự kinh tế cho một loại hình mới của mối quan hệ quyền lực vĩ đại có thể được mở rộng. Tất nhiên, sẽ có những nhạy cảm và khác biệt phải kiểm soát, nhưng mạng lưới mở rộng quan hệ kinh tế thắt chặt lại – của chính phủ, tư nhân, xuyên quốc gia và đa phương – có thể là một nguồn của những ý tưởng để giải quyết vấn đề, sáng tạo và thậm chí như một tấm đệm để hóa giải những sự khác biệt.
Đón đọc phần 4: Vấn đề an ninh 
*
*
Robert B. Zoellick
BS Hồ Hải dịch
Thứ năm, ngày 27 tháng sáu năm 2013
Bài viết của ông Robert B. Zoellick, cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới vừa mới từ chức và mãn nhiệm 30/6/2012, cựu thứ trưởng ngoại giao và đại diện thương mại Hoa Kỳ, hiện đang là nghiên cứu sinh danh dự tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson(Peterson Institute for International Economics) và một thành viên cao cấp tại Trung tâm Belfer(Belfer Center) của Đại học Harvard. Ông viết bài này cho Diễn đàn Thượng Hải tại Đại học Phúc Đán(復旦大學: Fudan University) ở Thượng Hải ngày 25 tháng 5 năm 2013 vừa qua, trước khi Hội nghị thượng đỉnh Sunnylands diễn ra tại California từ 07-09/6/2013.
Phần 4: Vấn đề an ninh 
Tuy nhiên, về vấn đề an ninh, cho dù song phương hay đa phương, Trung Hoa và Hoa Kỳ không có một mạng lưới như vậy. Khoảng cách này có thể được bắt nguồn từ một phần là do sự khác biệt về cơ cấu. Ở Trung Hoa, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) báo cáo với Ủy ban quân sự trung ương, một thể chế đảng trị mà vấn đề quân sự chỉ được quyết định bỡi một hoặc hai con người. Do đó, các quan chức chính sách đối ngoại cấp cao của Trung Hoa, ở chức vị ủy viên hội đồng của nhà nước, thường không thể can thiệp về các chủ đề an ninh cho đến khi sau khi quân đội Trung Hoa đã hành động và đôi khi chỉ sau khi thiệt hại cho quan hệ đối ngoại của Trung Hoa đã xảy ra.
Trung Hoa không có một hệ thống an ninh quốc gia đến an ninh hợp nhất của hội đồng thành phố, ngoại giao, quốc phòng, và cả về việc cân nhắc về kinh tế và chính trị. Kết quả là, không có một tổ chức đối tác Trung Hoa cho cái gọi là “Chính trị Quân sự”(“pol-mil”) để thảo luận như các quốc gia khác(cho chính trị-quân sự).
Đôi khi, Trung Hoa và Mỹ đã có trao đổi quân sự với quân sự, nhưng đây không phải là ở mức độ thích hợp. Và Trung Hoa cứ lần lượt các cuộc thảo luận đi và về những cuộc thảo luận cấp quốc gia gây bất mãn, ức chế sự trao đổi sâu và những tuyên bố trao đổi thành công là giả tạo. Hơn thế nữa, một loại mới của mối quan hệ an ninh của quyền lực vĩ đại đòi hỏi nhiều hơn những cuộc thảo luận giữa các lực lượng quân đội của hai quốc gia.
Một số quan chức và học giả Trung Hoa nhận ra sự cần thiết phải tích hợp đầy đủ các quan điểm của Trung Hoa về các vấn đề an ninh và chính sách đối ngoại. Ví dụ, hệ thống Trung Hoa có thể tìm đến một thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Trung Hoa (ĐCSTQ) để thỏ thẻ ý kiến của mình rồi sau đó mới ngồi lại với nhau để bàn về quốc phòng, chính sách đối ngoại, an ninh và các vấn đề kinh tế, rồi mới thu hút quân đội Trung Hoa, các quan chức của chính phủ và Đảng Cộng sản. Hoặc giới lãnh đạo Đảng có thể mượn vào cái loa của các tỉnh lẻ hành động. Nói chung chuyện an ninh quốc phòng ở Trung Hoa là chuyện bếp núc và suy nghĩ chợt đến của một vài cá nhân hơn là chuyện quốc gia đại sự.
Tuy vậy, cấu trúc một cuộc thảo luận chính trị-quân sự giữa Trung Hoa và Hoa Kỳ có thể bổ sung một cuộc đối thoại chiến lược đổi mới. Cuộc đối thoại chính trị quân sự hiện nay đã được đưa lên chủ đề quan trọng, nhưng quá ngắn gọn, quá không thường xuyên và với sự tham gia hạn chế ở cấp cao nhất, nơi mà những quyết định chiến lược có thể sẽ được thực hiện.
Hiệu quả nhất trong trao đổi chiến lược Trung Mỹ – là của Kissinger Chu Ân Lai, có cả Brzezinski và Đặng – một nhóm nhỏ nhưng tham gia nhiều giờ đàm thoại để phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới quan, lợi ích và khái niệm cơ bản cho mọi vấn đề.
Một cuộc thảo luận chiến lược cấp cao thực sự, bao gồm cả quy mô chính trị – quân sự, nên thúc đẩy một cuộc đối thoại trên quan điểm lịch sử, những xem xét địa lý, những khía cạnh kinh tế, chuyển đổi công nghệ, những hạn chế chính trị, những nhận thức về các điều kiện thay đổi, những lợi ích quốc gia và tìm kiếm những lợi ích chung. Thảo luận chi tiết ở cấp cao sẽ hỗ trợ Trung Hoa và Hoa Kỳ có thể kiểm soát được sự khác biệt.
Trong một cuộc đối thoại như vậy, Hoa Kỳ cần phải đưa ra một lời giải thích rõ ràng lý do tại sao chính sách của Mỹ không dựa trên một chiến lược “ngăn chặn”, mà dường như một số người Trung Hoa nghĩ. Hoa Kỳ cũng nên giải thích khái niệm chiến lược của những mối quan hệ với Trung Hoa và lý do tại sao những chính sách “bảo hiểm rủi ro” của Hoa Kỳ và những nước khác là một phản ứng hợp lý về những hành vi đáng lo ngại của Trung Hoa.
Điều quan trọng là những lợi ích chung của Mỹ và Trung Hoa mà 2 bên ít nhất cần phải hiểu và để có thể thúc đẩy nhau.
Ví dụ, những lợi ích này có thể bao gồm:
• Tự do an ninh của các vùng biển và an ninh hàng hải, đó là điều quan trọng đối với những lợi ích kinh tế quốc tế của Trung Hoa, ổn định khu vực và những mối quan hệ của Hoa Kỳ, vì một quyền lực hàng hải và Thái Bình Dương với Âu Á.
• Mở bầu trời và tiếp cận với không gian bên ngoài trái đất, để tạo thuận lợi cho lưu thông người, hàng hóa và thông tin – nó quan trọng đối với nền kinh tế và an ninh của chúng ta.
• Tiếp cận các nguồn năng lượng với giá hợp lý, bao gồm cả việc sử dụng để phát triển, quá cảnh và an toàn các nguồn tài nguyên. Lợi ích này được phục vụ bởi sự ổn định an ninh trong vùng Vịnh Ba Tư, những nguồn nhiều năng lượng và đường ống dẫn, an ninh các tuyến đường biển, phát triển công nghệ và hiệu quả năng lượng.
• Phát triển các nguồn tài nguyên khác, kết hợp với các biện pháp bảo vệ môi trường và xã hội, trong việc quản lý tranh chấp về lãnh thổ và quyền sở hữu.
• Thiết lập một cảm quan an toàn cho các đối tác khác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, để tránh làm mất ổn định và cạnh tranh quân sự có nguy cơ tiềm năng hoặc tính toán sai lầm.
• Không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, đặc biệt là các quốc gia hoặc những kẻ khủng bố có thể sẽ gây nguy hiểm cho hòa bình và ổn định khu vực và toàn cầu.
• Chống lại phong trào hồi giáo bạo lực cực đoan đồng thời khuyến khích các nhà lãnh đạo Hồi giáo thiết tha với sự phát triển hòa bình bằng sự tôn trọng niềm tin tôn giáo.
Việc xác định lợi ích cần được bổ sung bằng một sự chia sẻ đánh giá về những mối đe dọa đến những lợi ích và cũng có quan điểm làm thế nào để đối phó với các mối đe dọa.
Tuy nhiên, những lợi ích chung – và thậm chí cả sự phụ thuộc lẫn nhau ở mức độ kinh tế sâu – có thể sẽ có rất nhiều thất bại trong việc tháo gở với sự khác biệt trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thách thức đối với các nhà lãnh đạo Mỹ và Trung Hoa là sử dụng hợp tác toàn cầu như một sự khuyến khích để giảm xung đột trong khu vực, chứ không phải là cho phép những căng thẳng trong khu vực làm suy yếu sự hợp tác toàn cầu.
Trung Hoa có một lợi ích trong sự an toàn của những biện pháp tiếp cận bờ biển và trong việc đạt được ảnh hưởng ở Tây Thái Bình Dương. Hoa Kỳ có một mạng lưới các quốc gia liên minh và đối tác đánh giá cao sự hiện diện của Mỹ giúp cho sự ổn định và an ninh kinh tế khu vực. Các mối quan hệ liên minh này là quan trọng cho vị thế của Mỹ trong khu vực và toàn cầu, để trấn an những quốc gia khác. Do đó, mối quan hệ của Trung Hoa với một số nước láng giềng, trong đó có Nhật Bản, không thể tách rời khỏi các mối quan hệ của Hoa Kỳ với Trung Hoa hay quan hệ của Mỹ với các đồng minh của Mỹ. Đồng thời, các đối tác này của Mỹ – giống như Hoa Kỳ – họ giá trị kinh tế của họ, và những quan hệ mật thiết về kinh tế chính trị và văn hóa của họ với Trung Hoa.
Đón đọc phần 5: Vấn đề đồng minh
*
*
Robert B. Zoellick
BS Hồ Hải dịch
Thứ năm, ngày 27 tháng sáu năm 2013
Bài viết của ông Robert B. Zoellick, cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới vừa mới từ chức và mãn nhiệm 30/6/2012, cựu thứ trưởng ngoại giao và đại diện thương mại Hoa Kỳ, hiện đang là nghiên cứu sinh danh dự tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson(Peterson Institute for International Economics) và một thành viên cao cấp tại Trung tâm Belfer(Belfer Center) của Đại học Harvard. Ông viết bài này cho Diễn đàn Thượng Hải tại Đại học Phúc Đán(復旦大學: Fudan University) ở Thượng Hải ngày 25 tháng 5 năm 2013 vừa qua, trước khi Hội nghị thượng đỉnh Sunnylands diễn ra tại California từ 07-09/6/2013. 
Ngày nay, những đồng minh ở châu Á của Trung hoa vừa rất ít, lại vừa nghèo, mà lại vừa không đáng tin cậy và thường bị cô lập, trong khi các đồng minh của Mỹ là thịnh vượng và rộng khắp toàn cầu. Nếu khẳng định ảnh hưởng của Trung Hoa được xem như là một mối đe dọa cho các nước khác, thì chắc chắn Trung Hoa sẽ gợi lên một một sự phản ứng chống đối(counterreaction). Để tránh tạo ra tự bao vây chính mình, Trung Hoa có một lợi ích trong việc xây dựng mối quan hệ với các đồng minh và bạn bè của Mỹ, không làm gia tăng những lo ngại cho họ. Hoa Kỳ và Trung Hoa cùng nhau có lợi ích trong việc thúc đẩy hội nhập khu vực, trong một hệ thống toàn cầu, mà không có mối đe dọa làm suy yếu niềm tin hoặc leo thang căng thẳng.
Có vẻ như là các nước Đông Nam Á công nhận những lợi ích chung của hội nhập kinh tế trong khuôn khổ an ninh an toàn. Tuy nhiên, sự khác biệt trong phát triển nguồn tài nguyên đang tràn sang cả những lo ngại về an ninh hàng hải. Không ai trong số các bên có lợi ích trong sự leo thang của sự lo lắng hoặc xung đột. Họ chia sẻ một sự quan tâm trong những giải pháp đàm phán, hợp tác.
Tuy nhiên, Đông Bắc Á đặt ra mối nguy hiểm nghiêm trọng. Bắc Triều Tiên, với một nền kinh tế yếu kém và lãnh đạo không đáng tin cậy, đã sử dụng các mối đe dọa và vũ khí hạt nhân để yêu cầu hỗ trợ trong khi đọ lại tổ chức một nhà nước bảo vệ trong sư cô lập với thế giới bên ngoài. Thương mại quốc tế của Bắc Hàn về vũ khí nguy hiểm và các hoạt động bất hợp pháp là nguyên nhân tạo ra sự tàn phá ở những quốc gia khác.
Bắc Triều Tiên đã từ chốiHiệp định  đình chiến năm 1953. Nó đã sử dụng lực lượng quân sự chống lại Hàn Quốc hai lần trong những năm gần đây, tình trạng giết người và hiểm họa leo thang có thể trượt ra khỏi tầm kiểm soát. Bắc Triều Tiên đã đe dọa tấn công phủ đầu chống lại Hàn Quốc và Hoa Kỳ, trong khi gây nguy hiểm cho Nhật Bản, và thử nghiệm vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo mà nó có thể sử dụng để thực hiện các mối đe dọa này.
Một cách suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa đã tin rằng Bắc Triều Tiên cung cấp một vùng an ninh “đệm”(“buffer”). Nhưng điều này là một lý luận lỗi thời. Một cuộc xâm lược của Trung Hoa là không thể có. Nhưng xung đột nông nổi của Bắc Triều Tiên ngày càng gia tăng là điều thể hiểu được, và chắc chắn nó sẽ không có lợi cho Trung Hoa.
Khi ông Đới Bỉnh Quốc, một nhà ngoại giao lâu năm hàng đầu Trung Hoa, và tôi đã có những cuộc thảo luận chiến lược trong năm 2005-2006, tôi đề nghị rằng Hoa Kỳ sẽ hài lòng nếu Bắc Triều Tiên đã trở thành giống Trung Hoa. Làm sao mà, tôi hỏi, Trung Hoa có thể phản đối điều đó? Hơn nữa, tôi chỉ ra rằng nếu hai miền Triều Tiên xảy ra việc thống nhất – tuy nhiên quá trình này đã xuất hiện – Trung Hoa sau đó sẽ có lợi ích cùng với Mỹ duy trì một liên minh an ninh với Hàn Quốc. Liên minh này sẽ trấn an người Hàn Quốc, những người mà trong suốt lịch sử chỉ thấy bán đảo của họ lo chuyện phục vụ như một lộ trình cho những lực lượng quân đội của các nước láng giềng lớn hơn nhiều. Nếu một bán đảo Triều Tiên thống nhất được thừa kế một di sản vũ khí hạt nhân, thì các đồng minh của Mỹ với Hàn Quốc có thể là công cụ trong việc thuyết phục nó từ bỏ vũ khí đó. Một Hàn Quốc có vũ khí hạt nhân sẽ bị tách khỏi Nhật Bản là quốc gia duy nhất Á Đông Bắc mà không có vũ khí hạt nhân, vì nó là một tình huống mà sẽ làm lo lắng cho Nhật Bản.
Hơn thế nữa, tôi đã nói với ông Đới Bỉnh Quốc rằng đó là mong đợi của tôi, trái với suy đoán của Trung Hoa, là một liên minh của Mỹ với một bán đảo Triều Tiên thống nhất sẽ được hỗ trợ bởi những tài sản không phận và hải quân ở miền Nam, lục quân không lớn, và chắc chắn không có quân đội trên sông Áp Lục(*). Ngược lại, nếu các liên minh của Mỹ với Hàn Quốc chấm dứt, Nhật Bản có thể là quốc gia cuối cùng còn lại duy nhất của châu Á có căn cứ và quân đội Mỹ.
Đó là những năm trước. Bây giờ những nhà chiến lược của Trung Hoa và Hoa Kỳ cần phải có những cuộc thảo luận về an ninh ở Đông Bắc Á – nhằm ngăn chặn mối nguy hiểm hiện nay và chuẩn bị cho một ngày mai an toàn hơn.
Tuy nhiên, tất cả những đề xuất nội dung cho một loại mới của mối quan hệ quyền lực vĩ đại có thể sẽ chết non trừ khi Trung Hoa và Mỹ loại bỏ một sự phá hủy là chúng ta đang ăn mòn lòng tin và mối quan hệ của chúng ta: vấn đề an ninh mạng.
Mối lo ngại an ninh mạng có nhiều hình thức khác nhau, đó là sự làm tệ thêm tình hình nguy cơ gia tăng đối đầu. Thứ nhất là làm gián điệp. Thứ hai là gián điệp thương mại, trong đó Mỹ và các nước khác cho là quá khích, cực kỳ tốn kém và phá hoại. Thứ ba là phá hoại. Và thứ tư là những câu hỏi về tiến hành một cuộc chiến tranh mang – và liệu chúng ta và chúng ta phải làm thế nào, có nên áp dụng nguyên tắc như chiến tranh vì việc theo đuổi nóng này, nó làm thiệt hại tài sản thế chấp, mất sự cân đối và thiệt hại không thể chấp nhận từ xung đột trong không gian mạng.
Những thập kỷ trước đây, với sự ra đời của những vũ khí hạt nhân, các chiến lược gia bảo mật phát triển học thuyết và lý thuyết quản lý rủi ro hủy diệt hàng loạt. Tôi không biết liệu an ninh mạng có nên đưa vào các cuộc thảo luận tương tự. Tôi biết rằng điều quan trọng là các cường quốc của thế kỷ XXI thảo luận làm thế nào họ có thể đối phó với những vấn đề này, nó có thể làm suy yếu những kiến nghị đáp ứng của chủ tịch Tập Cận Bình bằng những bài học lịch sử.
Có một cuộc tranh luận ở Mỹ về việc liệu khái niệm “quan hệ quốc tế” của Trung Hoa đến bao giờ mới có thể chấp nhận một hệ thống dựa trên nguyên tắc hỗ trợ một cách tiếp cận tích hợp. Một số – bao gồm cả Henry Kissinger – tin rằng với quan điểm của chính bản thân Trung Hoa là “Vương Quốc Trung Tâm”(“Middle Kingdom”) chỉ cho phép các mối quan hệ triều cống(tributary relationships).
Quan điểm khác nhau giữa các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia của Mỹ có thể phản ánh, một phần, sự khác nhau trong kinh nghiệm về các vấn đề kinh tế và an ninh. Các nhà hoạch định chính sách kinh tế quan sát cách Đặng Tiểu Bình sử dụng hệ thống kinh tế quốc tế như một cách tạo khả năng cải cách nội bộ sâu sắc, Chu Dung Cơ đã đi xa hơn, sử dụng sự gia nhập WTO của Trung Hoa để nhập khẩu quy luật kinh tế quốc tế và các mối quan hệ. Tương tự như vậy, mối quan hệ và hoạt động kinh tế của Trung Hoa trong 5 năm qua của cuộc khủng hoảng kinh tế đã được hợp tác toàn diện. Trong thời gian tôi ở Ngân hàng Thế giới, tôi cũng thấy Trung Hoa ủng hộ cho – và sẵn sàng thích ứng với – các tổ chức phát triển đa năng và các vấn đề thúc đẩy bởi tăng trưởng kinh tế của Trung Hoa.
Kinh nghiệm với các chủ đề an ninh làm gia tăng nghi ngờ hơn, có thể dẫn đến sự khác biệt trong nhận thức về khái niệm những mối quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI của Trung Hoa.Ghi chú:
(*) Sông Áp Lục: (鴨綠江), (Yalu River) là biên giới tự nhiên giữa Bắc Hàn và Trung Hoa.
Đoán đọc phần cuối: Những ý tưởng mới
*
*
Robert B. Zoellick
BS Hồ Hải dịch
Thứ năm, ngày 27 tháng sáu năm 2013
Bài viết của ông Robert B. Zoellick, cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới vừa mới từ chức và mãn nhiệm 30/6/2012, cựu thứ trưởng ngoại giao và đại diện thương mại Hoa Kỳ, hiện đang là nghiên cứu sinh danh dự tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson(Peterson Institute for International Economics) và một thành viên cao cấp tại Trung tâm Belfer(Belfer Center) của Đại học Harvard. Ông viết bài này cho Diễn đàn Thượng Hải tại Đại học Phúc Đán(復旦大學: Fudan University) ở Thượng Hải ngày 25 tháng 5 năm 2013 vừa qua, trước khi Hội nghị thượng đỉnh Sunnylands diễn ra tại California từ 07-09/6/2013. 
Phần cuối: Những ý tưởng mới
Ý tưởng về một loại hình mới của mối quan hệ quyền lực vĩ đại không trả lời những câu hỏi này. Nhưng nó cho chúng ta một cơ hội để khám phá những câu trả lời khác nhau.
Nó không chỉ cho riêng Trung Hoa mà mang lại một kinh nghiệm lịch sử đặc biệt đối với nhiệm vụ này.
Hoa Kỳ, mặc dù nó là quốc gia đã có quyền lực, càng không phải là một cường quốc mà quyền lực bị dẫm chân tại chỗ. Nhiều nhà quan sát quốc tế đang bối rối bởi năng lực này của Mỹ. Cho nên các nhà bình luận hỏi tại sao Hoa Kỳ, quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, thì không chỉ đơn giản là muốn giữ trật tự hiện có.
Một biểu tượng của cam kết toàn cầu của Mỹ là các hóa đơn một đô la. Nhìn vào mặt sau của hóa đơn đó, và bạn sẽ thấy một hình ảnh Con dấu Vĩ đại của Hoa Kỳ, nó được đưa ra từ sự chấp thuận của Quốc hội Mỹ vào năm 1782. Nó bao gồm một châm ngôn Virgilian: “Trật tự mới của những kỷ nguyên”(“Novus Ordo seclorum”). Như giáo sư về lịch sử ngoại giao của tôi đã chỉ ra từ lâu, phần lớn lịch sử nước Mỹ là về trật tự mới này phải được tin tưởng là địa chính trị là chỉ để tạo ra Hoa Kỳ – và đặc điểm địa chính trị đó là một yếu tố làm cho Hoa Kỳ thích ứng với toàn cầu.
Ngoài ra đối với an ninh và năng lượng – và tự do đến nghệ thuật ngoại giao đô la và thương mại – chính sách ngoại giao Mỹ đôi khi tìm cách thúc đẩy các nguyên tắc của Khai sáng thế kỷ XVIII đã được thể hiện trong cuộc cách mạng Mỹ. Ngày nay, những nguyên tắc này được phản ánh trong các cuộc thảo luận về nhân quyền và tự do. Nhưng những điều đó cũng là chủ đề mà Trung Hoa đang tranh luận theo chuyên đề để quản trị tốt, các giới hạn về hành động của chính phủ độc đoán và các quy định của pháp luật.
Tôi hy vọng rằng những ý tưởng và khái niệm này có thể giúp hai quốc gia hùng mạnh và đầy sức sống tránh cạm bẫy ám ảnh của bá quyền (Thucydides) khi họ khám phá một loại hình mới của mối quan hệ quyền lực vĩ đại. Đây có thể là một liên doanh thú vị, với nhiều đe dọa – cho Trung Hoa, Hoa Kỳ và thế giới./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét