Pages

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Thư số 22 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Phạm Bá Hoa
Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa  mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này, tôi hy vọng là Các Anh sẽ hiểu rõ hơn là những gì Các Anh đọc trên báo chí cũng như nghe truyền thanh và xem truyền hình xã hội chủ nghĩa, điều mà ông Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư sau cùng của Liên Bang Sô Viết đã nói “cộng sản chỉ có tuyên truyền và dối trá”, về nội dung chuyến công du của ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch nước Việt Nam sang Trung Cộng hồi tháng 6/2013.
Thứ nhất. Trước ngày ông Sang rời Việt Nam.
Ngày 1/6/2013. Tàu cá của ngư dân Việt Nam trong lãnh hải của mình đã bị tàu cá Trung Cộng đâm chìm và ngư dân mất xác! Ngày 2/6/2013. Công An và côn đồ thẳng tay đàn áp, hành hung tàn bạo người dân bày tỏ lòng yêu nước của mình trước hành động xâm lăng của Trung Cộng. Ngày 17/6/2013.Theo tác giả Thiên Ngọc trong blog DanLamBao, lúc 22 giờ đêm, “tàu lạ” lại đâm vào tàu cá của ngư dân Bình Định, tàu thì bể vụn và 8 ngư dân chơi vơi trên biển. Rất may là các ngư dân được các tàu cá cùng địa phương nỗ lực tìm kiếm và cứu sống, nhờ tin tức truyền đi nhanh chóng trong giới ngư dân.
Hình ảnh hai sự kiện Trung Cộng đã đâm chìm tàu cá Việt Nam, trong khi Việt Nam có phi cơ tuần duyên, có lực lượng Hải Quân với đoàn tàu tuần duyên, có hỏa tiển phòng vệ duyên hải, nhưng tàu Trung Cộng tự do tung hoành Biển Đông trong vùng biển Việt Nam như “ao nhà” của họ. Các Anh có biết tại sao không? Tại vì các loại vũ khí nói trên chỉ để phô trương với đồng bào, cũng có ý nói với ngư dân rằng: “Cứ yên tâm ra khơi đánh cá, với “Dân Quân Biển” tự bảo vệ được mà, chỉ khi nào sự việc đến mức “đại cục” thì nhà nước lo. Dĩ nhiên là lãnh đạo Các Anh thừa biết các vũ khí đó làm sao dám đụng đến “tàu lạ”, nhưng vì 16 người trong Bộ Chính Trị đang ôm chặt “16 chữ vàng với 4 tốt” để ngồi yên trên những cái ghế quyền lực, cho nên Trung Cộng có hành động gì đi nữa thì họ xem như không nghe không thấy không biết là xong, còn ngư dân tự lo lấy mọi việc. Cùng lúc với sự kiện tương phản, trên biển thì “tàu lạ” rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, trong khi trên đất liền thì lãnh đạo Các Anh sử dụng Công An với côn đồ, thẳng tay đàn áp gây thương tìch và bắt giam những người yêu nước bày tỏ thái độ chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam. Tóm tắt. Trung Cộng có hành động gì với tàu cá Việt Nam là chuyện của ngư dân, còn quyền lực là chuyện của lãnh đạo Các Anh.
Ngày 5/6/2013. Tướng Nguyễn Chí Vịnh sang Bắc Kinh yêu cầu Trung Cộng “không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dung vũ lực trên biển giữa Hải Quân hai nước”. Tướng Thích Kiến Quốc trả lời: “Sẽ nghiên cứu”.
Câu trả lời đồng nghĩa với không trả lời gì hết, nhưng tôi nghĩ là ông Thứ Trưởng Quốc Phòng Các Anh rất bằng lòng, vì vừa ra cái điều thương xót ngư dân Việt Nam, và vừa được lãnh đạo Trung Cộng trả lời một câu không đụng chạm đến “đại cục”, được hiểu là “cục lớn” do lãnh đạo Trung Cộng dành cho lãnh đạo Việt Cộng trong bang giao giữa hai nước cộng sản mà thực tế là “đàn Anh với đàn Em”.
Ngày 13/6/2013. Bộ Ngoại Giao Việt Nam ra thông báo cho biết, Chủ Tịch Trương Tấn Sang sẽ công du Trung Quốc từ 19 đến 21/6/2013, theo “lời mời” (hay gọi) của Chủ Tịch Tập Cận Bình. Cùng lúc,theo người phát ngôn bộ Ngoại Giao Việt Nam Lương Thanh Nghị trả lời hãng tin Hoa Kỳ Blomberg, thì chuyến công du của ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang có mục tiêu “tăng cường lòng tin chính trị giữa hai bên, vì hòa bình, ổn định, và phát triển trong khu vực”.
Ngày 14/6/2013. Về phía Trung Cộng, bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao cho biết: “Bắc Kinh hy vọng chuyến thăm của Chủ Tịch nước Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung – Việt, tăng cường sự tin cậy lẫn nhau”.
Thật sự có phải là tăng cường “lòng tin chính trị và tin cậy lẫn nhau hay không, bây giờ tôi với Các Anh lần theo những sự kiện liên quan đến ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa Các Anh sang Trung Cộng, để tìm hiểu sự thật.
Thứ nhì. Những ngày ông Sang tại Trung Cộng.
Ngày 18/6/2013. Trước khi rời Việt Nam, Chủ Tịch Trương Tấn Sang trả lời báo chí Trung Cộng, có đoạn: “Đảng với Nhà Nước và Nhân Dân Việt Nam trước sau như một, hết sức coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc”. Ông nhấn mạnh: “Hơn bao giờ hết, cả hai nước đều cần môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định để tập trung phát triển”.
Không biết ông Chủ Tịch của Các Anh tuyên bố “trước sau như một”, có phải là ông ấy muốn nói đến trước sau như một là lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn xem 16 chữ vàng và 4 tốt là nền tảng trong bang giao giữa hai nước cộng sản hay không? Cho dù phải, hay không phải, rõ ràng là Trung Cộng luôn đứng ở vị trí cao trong khi Việt Nam ở vị trí thấp. Hãy xem tiếp những hoạt động của ông Chủ Tịch Các Anh ra sao.
Ngày 19/6/2013. Khi đến Bắc Kinh, ông Trương Tấn Sang được ông Tập Cận Bình đón tiếp nồng hậu. Nhưng tại địa điểm đoàn quân dàn chào, ông Tập Cận Bình chỉ hơi cúi đầu khoảng 10 độ, trong khi ông Trương Tấn Sang của Các Anh cúi đầu khoảng 50 độ. Trời đất ơi! Ông Chủ Tịch của Các Anh có quy lụy lãnh đạo Trung Cộng cũng nên kín đáo trong văn phòng, hoặc có quá lắm thì trong phòng họp cũng được, nhưng đứng giữa trời mà quy lụy như vậy là làm nhục cả dân tộc Việt Nam chớ có phải chỉ đảng cộng sản của ông ta nhục đâu!
Cũng ngay trong ngày 19/6/2013, ông Trương Tấn Sang cùng ông Tập Cận Bình chứng kiến lễ ký 10 văn kiện hợp tác giữa hai nước. Xin trích dẫn vài điểm chính:
Một. Theo Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam thì thỏa thuận phù hợp với hiệp định song phương về phân định vịnh Bắc Bộ, và Hiệp định này mới gia hạn lần thứ tư, kéo dài đến năm 2016.
Hai. Bộ Nông Nghiệp hai nước, sẽ thiết lập đường dây nóng để giải quyết các vụ va chạm liên quan đến ngư dân trên biển.
Ba. Giữa hai Bộ Quốc Phòng, sẽ xây dựng trung tâm văn hóa tại hai nước.
Bốn. Chương trình hành động giữa hai chính phủ về triển khai quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện.
Chỉ có vậy là hệ thống truyền thông Việt Nam ca ngợi ý nghĩa chuyến đi của ông Sang, để khẳng định “chính sách nhất quán của Đảng với Nhà Nước Việt Nam trong bang giao giữa hai  đảng và hai quốc gia, đưa hai nước phát triển thực chất theo khuôn khổ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện. Cán bộ cao cấp hai bên đều đồng loạt trả lời phỏng vấn về chuyến đi này trên hệ thống truyền thông cộng sản, cho thấy hai bên không hề mâu thuẫn trên hồ sơ biển đảo”.
Với nhóm chữ “chính sách nhất quán” của truyền thông theo sau nhóm chữ “trước sau như một” của ông Sang, phải chăng để chỉ sự khiếp nhược của Việt Nam đối với Trung Cộng như từ trước đến naysẽ vẫn tiếp tục? Với nhóm chữ “không hề mâu thuẫn” của truyền thông cộng sản Việt Nam, được hiểu là lãnh đạo Các Anh không bao giờ làm trái ý của lãnh đạo Trung Cộng, đến mức không dám dùng chữ tàu của “trung quốc” ủi chìm tàu cá Việt Nam, mà chỉ dám dùng chữ “tàu lạ” để nói đến sự kiện đó.Ngoan ngoãn đến như vậy thì làm gì có mâu thuẫn.
Ngày 20/6/2013. Sau cuộc hội đàm, hai phái đoàn cộng sản đã đạt được “thỏa thuận nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề biên giới và trên biển, như sau:
Một. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” .Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Hoa, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
Hai. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên biển.
Ba. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Hoa, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
Bốn. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp căn bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của thỏa thuận này.
Năm. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
Sáu. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên đồng ý thiết lập đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.
Tôi nghĩ, Các Anh không thể hiểu khác với những gì mà các phương tiện truyền thông của đảng cộng sản Việt Nam ra rả hằng ngày, trong những ngày ông Chủ Tịch Sang đang công du “nước lạ”, nhưng tôi căn cứ vào những sự kiện đã xảy ra để phân tách những chữ tôi tô đậm trong 6 nguyên tắc căn bản mà lãnh đạo Trung Cộng với lãnh đạo Việt Cộng (= Việt Nam cộng sản)  thỏa thuận.
Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng…. với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt… làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình…”.  Được hiểu rằng, cho dẫu Trung Cộng vẫn cứ tung hoành trên Biển Đông như ao nhà của họ, thì Việt Cộng cũng không được ồn ào phản đối mà phải vì “đại cục” vàhai nhóm phương châm mà giữ cho Biển Đông trong tình trạng hòa bình. Ngay cả sự kiện trọng đại là ngày 7/5/2009, Trung Cộng tự công bố “đường lưỡi bò 9 đoạn” chiếm khoảng 80% Biển Đông là của họ, rôi từ đó họ ngang nhiên hoạt động bất chấp chỉ trích từ quốc tế, họ cũng xem đó  là “tiểu cục” (hay là cục nhỏ). Vậy, Các Anh có nghĩ rằng, “theo thỏa thuận giữa lãnh đạo hai nước cộng sản, chỉ khi nào mất cả nước Việt Nam mới gọi là “đại cục” chăng?” Và lúc ấy, Các Anh sẽ là thứ công dân hạng hai hạng ba của Trung Cộng. .Các Anh có cam tâm trở thành người Tàu như vậy không? Hãy dành chút thì giờ mà suy nghĩ nhé!
“….. xem xét các yếu tố ….lịch sử…, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung….”. Được hiểu rằng, khi Trung Cộng căn cứ vào “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự cho là họ có chủ quyền không thể tranh cãi và họ tung hoành trên Biển Đông, thì Việt Nam phải cố gắng có nhận thức chung với Trung Cộng. Nghĩa là giải quyết hồ sơ Biển Đông theo ý của Trung Cộng mới gọi là có nhận thức chung.    
“……hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung….hiệp thương hữu nghị”. Được hiểu rằng, từ nay về sau những sự kiện xảy ra cho dẫu là do Trung Cộng gây ra, hai bên vẫn giải quyết như đã  thỏa thuận từ nhận thức chung.
“…. Giải quyết các vấn đề dễ trước khó sau… Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm…” Được hiểu là, nếu như Trung Cộng cùng lúc lấn chiếm Trường Sa với rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, thì giải quyết vụ tàu cá trước, còn vụ lấn chiếm Trường Sa thì từ từ giải quyết theo “đại cục, hòa bình hữu nghị”. Cách giải quyết này đã xảy ra hồi năm 1988, cứ mỗi lần quân Trung Cộng lấn chiếm 1 đảo trong quần đảo Trường Sa, thì Trung Cộng với Việt Cộng đồng ý giải quyết trong hòa bình hữu nghị trên căn bản lấy “đại cục” làm trọng, đề rồi lần lượt 8 đảo vào tay Trung Cộng. Lấy “đại cục với hòa bình hữu nghị” giải quyết những vấn đề trong bang giao giữa hai nước là như vậy đó. Cách này cũng tương tự như ông Trương Tấn Sang đã tuyên bố trước khi rời Việt Nam sang Bắc Kinh, là Việt Nam vẫn “trước sau như một” trong bang giao với Trung Cộng, được hiểu là hôm qua như thế nào thì hôm nay và ngày mai, Việt Nam cũng như vậy. 
Và nguyên tắc thứ 6 là “…. Hai bên đồng ý thiết lập đường dây nóng …” Được hiểu là, khi có “đường dây nóng” thì những sự kiện xảy ra trên biển giữa hai nước, sẽ giải quyết nhanh chóng. Nhưng thực tế trong 5 năm qua, hằng trăm vụ xảy ra trên vùng biển Việt Nam do chính Trung Cộng gây ra, và tất cả thiệt hại đều ở phía Việt Nam, nhất là ngư dân. Bây giờ Trung Cộng nói đến “đường dây nóng” để giải quyết những vấn đề trên biển, có vẻ như họ ra cái điều tử tế với Việt Nam hay sao ấy? Nhưng đã là cộng sản, làm quái gì có người cộng sản tử tế, chỉ cần sự công bằng cũng không có thì làm sao nói đến hành động tử tế cho xã hội, tử tế trong bang giao quốc tế, vì bản chất của cộng sản là dối trá mà. Thôi thì hãy ráng chờ xem những vụ tàu Trung Cộng rượt đuổi tàu cá Việt Nam sẽ giải quyết ra sao với đường dây nóng mà ông Sang với ông Bình thỏa thuận.
Ngày 21/6/2013. Kết thúc chuyến công du, bản Tuyên Bố Chung do ông Trương Tấn Sang với ông Tập Cận Bình cùng ký ngày 21/6/2013. Mở đầu vẫn là 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Đoạn này cũng là đoạn mở đầu ở nguyên tắc số 1 trong 6 nguyên tắc mà ông Sang thỏa thuận ngay sau khi ông đến Bắc Kinh. Chỉ trong một chuyến đi mà có đến 2 bản văn ghi đầy đủ 16 chữ vàng và 4 tốt, phải chăng đó  là “mệnh lệnh” của lãnh đạo Trung Cộng buộc lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải thực hiện?
Ông Bùi Tín, trong bài viết ngày 1/7/2013, nhận định “Chưa bao giờ có sự đầu hàng nhanh chóng và nhục nhã đến như vậy”.  Tác giả viết tiếp: “Mọi người Việt Nam yêu nước, không thể không bàng hoàng và phẫn nộ khi đọc kỹ văn kiện nói trên, không thể không nhận định đây là một văn kiện tuyên bố đầu hàng bọn bành trướng và xâm lược phương Bắc. Chắn chắn cả Bộ Chính Trị 16 người, đã được thông báo và đồng tình với bản Tuyên Bố Chung thảm hại này. Tác giả nhấn mạnh: ”Đọc thật kỹ bản Tuyên Bố Chung, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Hoa khởi thảo, và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi gì hết. … Hoàn toàn phản nh tham vọng bành trướng và xâm lược của đế quốc cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, … biến nhà nước Việt Namcộng sản thành một chư hầu, biến Việt Nam cộng sản thành một thuộc địa kiểu mới của họ, với sự tiếp tay của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất tài, tham nhũng, và thoái hóa đến cùng cực.
Ông Bùi Tín lần lượt đi sâu vào bản văn đó. Xin tóm tắt: “Bản Tuyên Bố Chung có 8 điểm, riêng điểmthứ có đến 13 mục nói đến quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện song phương giữa hai đảng, haiban đối ngoại, hai ban tuyên huấn, hai bộ ngoại giao, hai quân đội, và giữa hai bộ quốc phòng,  về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, trong đào tạo sĩ quan, trong tuần tra chung ở vùng biên phòng đất liền, về thực thi pháp luật, an ninh, về trật tự an toàn xã hội, về an ninh biên giới, và an ninh trên biển…”.
Các Anh có thấy 2 chữ “song phương giữa hai đảng” không? Nó được hiểu là, hồ sơ Biển Đông sẽ đóng khung giữa Trung Cộng với Việt Cộng. Đó là sự thỏa thuận đưa Việt Nam tự mình cô lập với thế giới bên ngoài trên hồ sơ này. Vậy là Việt Nam “sẽ chết” bởi Trung Cộng trong tầm mắt! Chỉ vì nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài mà dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa đến nay, chưa bao giờ phẫn uất trong đau khổ  đến như vậy! Đau khổ, phẫn uất đến mức chỉ đứng nhìn mà “chờ chết”, chớ không được phép yêu nước bằng cách chống lại Trung Cộng dù chỉ  mít tinh biểu tình, hoặc phơi trải nỗi đau trên trang blog góp phần tranh đấu giành quyền sống cho đồng bào!
“…. Bản Tuyên Bố còn nhấn mạnh đến mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa 7 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam gồm: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, với 3 tỉnh tự trị của Trung Cộng là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và đảo Hải Nam. Cùng phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… thúc đẩy các tỉnh cũng như khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển…
Liệu, thỏa thuận này có phải trong mưu đồ của Trung Cộng chia cắt vùng này thành những khu vực nhỏ bằng hệ thống giao thông để lấn chiếm dọc biên giới Việt Nam từ những lãnh vực sinh hoạt thường ngày, đến mức khi nhận ra thì quá trễ chăng?  
Tương tự nhận định của tác giả Bùi Tín, cựu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một thời là đại sứ Việt Nam tại Trung Cộng, nhận định ngắn nhưng đủ nghĩa: “Hoàn toàn lợi cho Trung quốc”.
Trong khi nhận định của Khối 8406 như một lời than cho số phận dân tộc Việt Nam: “29 chữ nhất trí, và 7 chữ toàn diện” trong một bản Tuyên Bố Chung trên mấy trang giấy thì không thể khá được!”
Với giáo sư Ngô Vĩnh Long khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Trọng Nghĩa đài Á Châu Tự Do, thì:“Nội dung bản Tuyên Bố Chung là bước lùi chiến thuật của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc, vốn không muốn đề cập đến các vấn đề đa phương trong một văn kiện đúc kết một chuyến thămmang tính chất song phương”.
Các Anh hãy nhớ lại, khi mà những nhà lãnh đạo Các Anh từ Bộ Chính Trị, Chánh Phủ, các Bộ, các Tỉnh/Thành, xuống đến Quận/Huyện, Phường/Xã, khi họ nói hay đọc diễn văn đều dài lòng thòng mà tôi nghĩ là chính họ cũng không biết họ đã nói gì nữa, vì quanh đi quẫn lại vẫn là những nhóm chữ: Các ý tưởng tốt đẹp, các tổ chức hiệu quả, các chỉ chị đúng đắn, tôn trọng hòa bình hữu nghị, tăng cường đối tác hợp tác ..v..v..,  như trong bản Tuyên Bố Chung này, nhưng lại không có chữ nào nói đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng không nói đến những vụ tàu Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá ngư dân Việt Nam! Vậy, Các Anh có cảm nhận nỗi đau của người Việt Nam luôn bị Trung Cộng “đàn áp”  từ suy nghĩ đến hành động, trong khi lãnh đạo đảng với nhà nước có quá lắm cũng chỉ một bản tin phản đối là phủi tay?
Thêm nữa, những sự kiện mà Trung Cộng lấn áp đảng cộng sản Việt Nam và lấn chiếm đất liền biển đảo Việt Nam từ sau chiến tranh biên giới đầu năm 1979 đến nay, lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thể phủ nhận là họ không phụ thuộc lãnh đạo Trung Cộng trong bang giao giữa hai nước cộng sản, vì: “Năm 1988, lần lượt 8 đảo trong quần đảo Trường Sa bị Trung Cộng chiếm. Giữa năm 2011, tài liệu mà Wikileaks công bố, đã khẳng định tin tức dưới đây trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng cộng sản và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo cộng sản Việt Nam, với Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân, và Thủ Tướng Lý Bằng, đại diện lãnh đạo cộng sản Trung Hoa, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại Thành Đô của Trung Cộng, có đoạn: “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí  công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm(1990-2020) để đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”Ngày 30/12/1999, 789 cây số vuông dọc theo biên giới do Việt Cộng giao cho Trung Cộng. Ngày 25/12/2000, 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt do Việt Cộng giao cho Trung Cộng. Tháng 11/2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác. Ngày 3/4/2009,Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, nhận định: Trung Hoa vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế cả ba nước Việt Nam, Lào, và Campuchia. Bởi vì, Trung Hoa đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri của Kampuchia, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm. Và họ cũng đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia”Ngày 31/8/2011, Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương dọc biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểmcó khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc với trên 1.300.000 người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền đất nước Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay và đang  mai phục khắp đất nước nàyMột nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng. Và ..v..v..”  

Vớ nhận định của tôi, là từ khi có đảng cộng sản đến nay, dân tộc Việt Nam phải gánh chịu hậu quả chưa bao giờ có trong lịch sử do sai lầm của lãnh đạo cộng sản, từ “bác” Các Anh, lần lượt qua từng nhóm lãnh đạo, đến Bộ Chính Trị đương nhiệm hiện nay. Rồi đây, họ khó mà tránh được lịch sử ngàn đời sẽ nguyền rủa họ và những người trong dòng họ của họ, đã trực tiếp tạo nên một giai đoạn lịch sử đen tối nhất của dân tộc Việt Nam!.

Kết luận.
Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25  năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa phơi trải bên trên?
Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt đời thường của xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết. Vì vậy mà Các Anh khó nhận ra, thậm chí là không thể nhận ra những điều tồi tệ của lãnh đạo cộng sản, nhất là mức độ tồi tệ trong giáo dục học đường và giáo dục xã hội đã dẫn đến một xã hội băng hoại như hiện nay. Đây là nỗi đau lớn hơn bất cứ nỗi đau nào khác, vì thời gian khôi phục lại một xã hội nhân bản theo nếp sống văn hóa dân tộc, ít nhất phải hai thế hệ, hay là 50 năm sau!
Các Anh hãy đọc phần nhận định của cố Trung Tướng Trần Độ có 58 tuổi đảng, đã một thời thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ. Quan điểm của ông trong nhật ký “Rồng Rắn” năm 2000, như sau: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ  có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp”. Cũng từ đó mà ông bất mãn vì lãnh đạo không chấp nhận quan điểm của ông, và ông bị khai trừ khỏi đảng từ ngày 4/1/1999. Trung Tướng Trần Độ của Các Anh, là một trong những đảng viên thức tỉnh, nhận ra độc tài là một chế độ dối trá, mà dối trá thì đưa dân tộc vào nền văn hoá chết, văn hoá chết thì còn gì để gọi là con người có văn hoá trong thế giới văn minh lịch sự!
Sau khi Các Anh nghiền ngẩm đoạn trên, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người  Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).
                                                                  Texas, tháng 8 năm 2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét