Không biết ai người Quảng Trị suy nghĩ gì, cảm thấy thế nào về quê hương họ. Riêng tôi, đó là nỗi niềm khôn nguôi.
Lần đầu đến Quảng Trị là lúc 20 năm sau ngày MN Giải phóng. Một nỗi niềm đan xen, khó diễn đạt bằng một hai từ. Vừa thương cảm, vừa xót xa, đau đớn, vừa chua xót, nghẹn uất. Lúc đó tôi đã nhớ đến câu nói của Trịnh Công Sơn. Năm đó TCS ra Hà Nội, và các báo đã đồng loạt đưa bài. Một bài nào đó đã nhắc đến câu TCS nói về Hà Nội: “HN như miếng bọt biển, mà mỗi bước đi đều làm bắn ra những tia nước của dấu tích lịch sử”. Còn tôi, tôi nói về Quảng Trị: “Quảng Trị như chiếc chảo gang nóng bỏng, mà mỗi bước đi đều phát ra những tiếng kêu chát chúa của đau thương, đói nghèo, cơ cực, và nỗi đau chiến tranh”.
Quảng Trị 20 năm trướcLần đầu đến Quảng Trị là lúc 20 năm sau ngày MN Giải phóng. Một nỗi niềm đan xen, khó diễn đạt bằng một hai từ. Vừa thương cảm, vừa xót xa, đau đớn, vừa chua xót, nghẹn uất. Lúc đó tôi đã nhớ đến câu nói của Trịnh Công Sơn. Năm đó TCS ra Hà Nội, và các báo đã đồng loạt đưa bài. Một bài nào đó đã nhắc đến câu TCS nói về Hà Nội: “HN như miếng bọt biển, mà mỗi bước đi đều làm bắn ra những tia nước của dấu tích lịch sử”. Còn tôi, tôi nói về Quảng Trị: “Quảng Trị như chiếc chảo gang nóng bỏng, mà mỗi bước đi đều phát ra những tiếng kêu chát chúa của đau thương, đói nghèo, cơ cực, và nỗi đau chiến tranh”.
Năm 1995. Đó là một cuộc khảo sát đói nghèo trên toàn quốc. Từ Quảng Bạ, Hà Giang, đi qua Gio Linh, Quảng Trị, đến Mang yang, Gia Lai, và kết thúc ở Củ Chi. Đoàn gồm những người từ 10 lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Mỗi người tự làm lĩnh vực của mình. Hàng ngày, chúng tôi sáng đi qua Dốc Miếu, chiều về qua Dốc Miếu. Cái địa danh mà nhắc tên ai cũng thấy rợn người vì cuộc chiến khốc liệt. Đi qua đó, cuộc sống thanh bình. Những người đi chợ về thưa thớt. Một quán bán nước, quà bành lèo tèo. Nhưng sao tai vẫn nghe chát chúa tiếng rền bom đạn. Xung quanh cây cối xanh tươi, đường đi phẳng lỳ, dưới cái nóng cháy người của tháng 5. Mà sao vẫn cảm thấy sức nóng ghê người của đạn và pháo. 20 năm bình yên đã qua nhưng cảm nhận trong con người vẫn còn. Đấy là cảm giác bên trong. Còn những sự kiện bên ngoài lại là những nỗi ám ảnh khắc nghiệt hơn nhiều.
Ngồi trong xe lạnh, giữa trưa nắng trang trang. Đầu óc lâng lâng, u mê. Chợt bừng tỉnh, nhìn ra ngoài. Khung cảnh trắng toát, với những cây thông đâm lên như rạch toạc cái trắng trời trắng đất. Chợt ngơ ngác, không hiểu mình đang ở đâu. Giữa cánh đồng tuyết trắng hay giữa sa mạc cát trắng. Lúc đó tôi đã nghĩ, với phong cảnh này, với bãi biển trong xanh, bãi cát trắng, và hàng phi lao dài vô tận, nếu làm du lịch, nghỉ dưỡng thì Quảng Trị không giàu mới là lạ.
Vào một nhà dân. Mái tranh xơ xác. Hai mẹ con, gầy gò, đen cháy trong cái nắng, gió Lào. Chị chủ nhà mời nước. Chỉ là nước đun sôi, không có nước chè. Nước chè là thứ phổ biến ở mọi làng quê Việt Nam. Vậy mà… Hỏi chị: - ở đây mọi người có uống nước chè không? Chị bảo: - có, nhưng có nhà uống, nhà không. - Sao nhà chị không uống? – không có tiền. Con trai chị đi học ở trường xã bên cạnh, cách nhà gần chục cây. Nhưng không có xe đạp. Hàng ngày đều đi bộ. (Trời nắng thế này, ăn uống thế này, vất vả thế này, thảo nào cả 2 mẹ con đều gầy đét.). Chị bảo, năm ngoái trồng ớt, thu hoạch được lắm. Năm nay trồng cũng được nhiều lắm. Đất cát hợp với cây ớt. Nhưng năm nay không bán được vì người ta bảo không xuất được. Để lại ớt khô ngoài ruộng cát thôi. Rồi chị bảo đợi chị đi lấy dưa lê về mời khách ăn. Đợi một lát, chị mang từ ngoài ruộng về quả… dưa bở. Tôi ngạc nhiên hỏi: sao lại bảo đây là dưa lê? Chị bảo: cán bộ khuyến nông mang giống về giao cho dân trồng, bảo đấy là dưa lê. Trồng để xóa đói giảm nghèo. – thế chị ăn quả này có thấy ngon không? – cũng ngon. Hôm trước con trai bị ốm cho nó ăn, nó cũng thích. – Nó ốm, đã uống thuốc gì chưa? – nó uống nước đường rồi. – sao lại uống nước đường? – không có thuốc, cho uống nước đường cho nó chóng khỏe. Hỏi thằng con trai: - cháu uống nước đường có thích không? – thích lắm. cháu muốn ngày nào cũng được uống nước đường. – Cháu có hay được uống nước đường không? – Hồi cháu bé, có 1 lần đã được uống nước đường. Hôm trước cháu ốm, được uống lần thứ 2. (Một nỗi đau nghẹn lên cổ. Ngày bé, khi ốm tôi được uống sữa. Sau đó, lúc nào tôi cũng mơ ước được uống sữa. Nỗi ám ảnh suốt tuổi thơ). Nỗi đau nghẹn ngào. Người ta đã nghèo như thế, vậy mà… ớt cũng không bán được, vậy mà trồng dưa lê lại ra dưa bở. Đã 20 năm qua rồi mà tôi vẫn không quên được điều này.
Đi trong làng, gặp những con người ốm yếu. Nhiều người bị sốt rét với nước da vàng bủng, hoặc tái mét màu chì. Nhiều người có dấu hiệu bị lao. Gày trơ xương, hốc mắt trũng xuống. Luôn ôm ngực với những cơn ho thắt ruột. Ánh mắt nhìn ngơ ngác, mất hồn. Bây giờ chắc chương trình sốt rét, chương trình lao, và các chương trình sức khỏe khác đã đến với vùng này rồi. Bên cạnh những bệnh đó, tôi thấy Gio Linh còn một đặc trưng nữa, đó là bệnh đao. Ngày trong chiến tranh, có câu nói tự hào rằng: ở Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng. Ngày đó, tôi đã nghĩ, Gio Linh, ra ngõ gặp người đao. Ra ngõ là gặp. Ra đường là gặp. Từ đứa trẻ, cho đến thiếu niên, rồi thanh niên. Sao nhiều thế. (không biết có liên quan gì đến hàng rào Mc Namara không?). Rải rác trong làng là những người đàn ông vác theo máy dò. Hỏi: họ dò gì mà nhiều người đi dò thế? – Họ dò mìn. ở đây, không có gì nhiều và sẵn như mìn và súng đạn. Họ lấy về để bán sắt vụn. Và… họ còn dò cá nữa. Họ dùng điện để làm cho cá chết, họ vớt về ăn. Nhưng cá cũng ít lắm. Đi cả buổi, chỉ mang về được ít cá con đủ ăn 1 bữa. Trời tháng 5, nắng chói trang. Nhưng cảm giác trong người tôi thật u ám. Bầu trời như xam xám, mờ mịt.
Câu chuyện cuộc đời một người đàn bà vẫn ám ảnh tôi đến bây giờ. Tôi đến nhà bà, một cái nhà tường và mái làm bằng pờ rô xi măng. Nóng kinh khủng. Người đàn bà ngồi nhẫn nại trong cái nóng nung người. Bà người Gio Linh. Lấy chồng Vĩnh Linh, bên kia sông. Sinh được 1 con trai thì bắt đầu chia cắt đất nước. Khi có bắn nhau, bà mang con về nhà mẹ đẻ. Được một vài tháng thì bà bị bắt đi học tập. Những người vợ cộng sản bị đi học tập. Bà không chịu được cảnh o ép nên trả con cho nhà chồng. Lúc đó có chính sách lính quốc gia lấy vợ của cộng sản. Trong lúc bà bị bắt giữ (hàng ngày đi dọn nhà vệ sinh, đi gánh nước, và thường bị lính trêu ghẹo) thì có người lính thương tình, chăm sóc, giúp đỡ. Cuối cùng 2 người lấy nhau. Bà sinh 2 con, 1 gái, 1 trai. Rồi người chồng đi lính trong Đà Nẵng. Hàng tháng bà có tiền của chồng. Cuộc sống dư giả. Rồi người chồng chết trận. Bà có tiền, nuôi 2 con. Sau ngày Giải Phóng. Bà lại phải đi học tập. Không còn tiền của chồng nữa, 3 mẹ con phải tự bươn chải, làm ruộng. Con gái lấy chồng, con trai lấy vợ. Nhưng chúng không tự lo được, vẫn về xin tiền bà. Con trai đi Đà Nẵng kiếm việc. Được một thời gian, không có việc làm, sinh nghiện. Quay về nhà, đi dò mìn. Năm ngoái dò được quả mìn. 2 cha con nhà nó cưa mìn lấy thuốc, bán vỏ. Mìn nổ, cha chết, con bị què. Cô con dâu bỏ đi Đà Nẵng làm. Được vài tháng, rồi không thấy tin tức gì. Còn lại bà và thằng cháu nội bị què, nuôi nhau. Hỏi:- cuộc đời bà khi nào là sướng nhất? Khi chồng đi lính Đà Nẵng, gửi tiền về. – Khi nào khổ nhất? – Khi thằng con đi Đà Nẵng, bị nghiện, về xin tiền bà. – Bây giờ có khổ không? – không, 2 bà cháu nuôi nhau, cũng không khổ. - Con trai bên Vĩnh Linh có tìm bà không? – có, hồi sau Giải Phóng, bên đó họ có đi tìm. – Bà có định về ở với con trai bên Vĩnh Linh không? – không, cha nó chết liệt sỹ. Nó cũng nghèo, tự nó nuôi nó cũng khổ rồi. Nó có gia đình, có con. Mấy năm nay cũng không liên hệ gì nữa…
Các ngài Tổng Thống, các ngài Thủ Tướng, các ngài Chủ Tịch, có nghe câu chuyện cuộc đời người đàn bà này không? Họ là những người dân thường. Các ngài làm gì mà giáng họa lên đời họ như vậy?
Sau chuyến đi Gio Linh đầy ấn tượng đó, tôi đã dự định sẽ tham gia vào những dự án giúp Quảng Trị. Sẵn sàng làm tự nguyện, không cần tiền công. Nhưng, có lẽ tôi không có duyên với Quảng Trị. Và hình như Quảng Trị cũng không hấp dẫn với những dự án.
Không có dịp quay lại Gio Linh, lần này chỉ đi thăm các di tích và đi đường 9 lên Lao Bảo. Mọi thứ đã thay đổi. Thay đổi lớn nhất là con đường xuyên Á. Ngày xưa, con đường 9 đã là mồ chung của bao người. Bây giờ nó là con đường tốt hàng đầu Việt Nam. Nhìn vào con đường thì biết tầm quan trọng của nó đối với đất nước và đối với nền kinh tế. Mà không chỉ với kinh tế đất nước mà còn với kinh tế của cả những nước nó đi qua. Cửa khẩu Lao Bảo cũng được xây dựng rất hoành tráng, tương xứng với tầm quan trọng của nó. Con đường và cửa khẩu là dấu hiệu đầy hy vọng cho sự khởi sắc của kinh tế Quảng Trị. Du lịch của Quảng Trị chắc chắn sẽ phát triển. Quảng Trị có biết bao nhiêu là di tích lịch sử. Quảng Trị lại có bãi biễn, với những bãi cát trắng mênh mông.
May mắn là có dịp được vào UBND huyện Hướng Hóa, được tiếp xúc với lãnh đạo UB. Cũng giống như mọi nơi trên cả nước, Tòa nhà UBND, và những tòa nhà cơ quan lãnh đạo huyện khác, rất to và đẹp và khang trang và bề thế và uy nghi. Cũng giống như lãnh đạo các địa phương khác, lãnh đạo huyện cũng rất là… lãnh đạo huyện. đ/c nói là cũng đã ra TƯ để đi học chính trị. Đ/c nói là các dự án xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. Đ/c nói là đã tổ chức cầu truyền hình về các trận chiến. Đ/c nói là đang xây tòa nhà to để đón tiếp các gia đình thân nhân liệt sỹ về thăm viếng… Bla bla… nói chung là mình ngửi thấy… thôi không nói nữa. Mình nghĩ bụng, hy vọng dân nhận được ơn mưa móc. Hy vọng là ơn mưa móc không rơi vãi dọc đường. Hy vọng là…, là…, là…
HN 29/6/2014
Bà Đầu Đinh
Quảng trị, là tuyến lửa trong chiến tranh, Quảng trị là địa phương bị phá hoại manh nhất về tôn giáo và văn hóa truyền thống, các kiến trúc tôn giáo và tín ngưỡng bị phá sạch do đây là quê hương của ông Lê Duẩn.
Trả lờiXóaNgười Quảng trị nếu còn tự hào về những thứ như "cách mạng" "anh hùng" thì dân còn khổ dài dài vì chúng là những thứ "nghich thiên" không bao giờ tạo phúc cho dân chúng.