Pages

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

Thỏa Ước Thành Đô 1990 – Vết Dao Trí Mạng Trên Thể Xác Mẹ Việt Nam


Mường Giang
Sau khi màn kịch “giàn khoan HD-981”. đem cắm trong hải phận Việt Nam hạ màn, Trung Cộng ngoài việc chỉ hù dọa được thằng “đầy tớ bán nước Việt Cộng”, thực chất coi như thất bại hoàn toàn, vì đã làm cho thiên hạ khắp năm châu, càng lúc càng thêm khinh ghét và miệt thị, trước thái độ côn đồ, ngông nghênh và không giống ai ngay trong thế kỷ XXI này. Nhưng đắng cay nhất chắc chắn vẫn là Trung Cộng đã dại dột tạo cớ để Hoa Kỳ công khai trở lại Châu Á /Thái Bình Dương và xây dựng được một thế Liên Minh vững chắc với hầu hết các quốc gia trong vùng, dù có hay không tranh chấp với Tàu Đỏ về vấn đề kinh tế, biên giới và biển đảo, ngoại trừ đảng Cộng Sản Việt Nam, cho đến bây giờ vẫn con đang sống ở cõi trên, chờ Hoa Kỳ mang đô la đến để “mướn lập liên minh “ chống Tàu…

Đó là lý do, các cán đảng Việt Cộng, Trung Cộng và quan quyền Mỹ suốt hai tháng qua, tới lui Hà Nội, Bắc Kinh, Hoa Thịnh Đốn như con thoi. Rốt cục canh bài phé “bán nước Việt Nam”. đã được Nguyễn Chí Vinh và Lê Hồng Anh, một tên là “thứ trưởng bộ quốc phòng”, còn tên kia “cựu bộ trưởng công an, ủy viên bộ chính trị”  cùng mỡ chén, lật ngữa con bài tẫy với lời tuyên bố huỵch toẹt “đảng ta cương quyết theo Tàu, cùng Tàu chia chát biển Đồng”. Đây cũng là di chúc của ‘bác hồ, bác duẩn …” Ta đánh Mỹ là đánh cho Nga, Tàu và Trung Cộng cũng quyết tâm đánh Mỹ cho đến người Việt cuối cùng”.
Sang chầu thiên triều kỳ này, ngoài mặt là một sứ gỉa lại được Tập Cận Bình tiếp cận nhưng thực chất là đến Tàu van lạy “xin nhẹ bớt tay để đảng đàn em được sống còn”. Bởi vậy Lê Hồng Anh ngoài sứ mệnh dâng biểu tấu thỉnh tội của các Thái thú Trong, Sang, Dũng, Hùng “đã không đàn áp thẳng tay dân Việt như Tàu đã làm tại Thiên An Môn năm 1989, nên mới xảy ra các biến cố chống Tàu xâm lăng Việt Nam, qua vụ giàn khoan HD-981..”. Anh còn mang công khố Quốc Gia sang bồi thường thiệt hại cho kẻ cướp (trong khi chúng hằng ngày giết hại và cướp đoạt tài sản của Ngư Dân Việt Nam trên Biển Đông, sao không bắt chúng bồi thường?).  Đã vậy Anh không biết đã đại diện cho ai, tự mình ký kết “chia biển” và dẫn thêm 10.000 tên Tàu phù về nước, nói là nhu cầu lao động tại Hà Tĩnh…
Mai mĩa và tội nghiệp nhất cho những người Việt Cộng ngày nay, qua “ác tưởng” cùng nghiên cứu và khai thác biển Đông với giặc, trong lúc chúng đã xâm lăng bờ cõi nước ta. Và sự bán đứng công khái đất nước của Việt Cộng quả thực là chúng đã không còn coi bất cứ người Việt Nam nào ngày nay là “con người”, cho nên mới cả gan tự tác đem biển đảo của Việt Nam chia cho giặc, làm như đây là vật sỡ hữu của tổ tiên giòng họ chúng..
Giữa lúc cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, hầu hết mọi người đều muốn tống khứ lũ “Tàu phù” ra khỏi đất nước của họ vì những hành động ngông cuồng, quái thai và côn đồ của chúng càng lúc càng làm cho ai cũng muốn nôn mữa, thì có những kẻ tự xưng là lãnh đạo, đã tìm đủ trăm phương ngàn kế rước giặc về, làm cho đất nước tan hoang như ngày nay. Thảm họa nộ lệ Tàu đã khộng còn là viễn tượng, bài học lịch sử mất nước Việt thời nhà Triệu lại tái diễn. Ngày xưa Triệu Ai Vương và Cù Thị đem nước Nam nạp cho nhà Đông Hán. Ngày nay đảng Cộng Sản xin Bắc Kinh cho Việt Nam thành một khu tự trị thuộc trung ương, qua cái được gọi là thỏa thuận Thành Đo năm 1990. Tất cả như một vòng xoáy lịch sử đã và đang tận diệt dân tộc Việt.
Những trang Sử Việt vẫn còn trước mắt mà ai cũng có thể đọc để bi phẩn ngậm ngùi và thương hận, sau khi Nam Việt bị nước Tàu cưỡng chiếm , đổi thành Giao Chỉ Bộ. Từ đó qua mười thế kỷ bị đô hộ, dân tộc ta nội thuộc nhà Hán như một quận huyện và đã trải qua những tháng ngày lầm than tủi nhục, dưới gông cùm nô lệ, bốc lột áp bức, man dã tàn độc, lên rừng chặt quế kiếm ngà voi, xuống biển mò châu đãi ngọc, để giặc mang về bản thổ làm giàu.
Sự khổ hận của người nô lệ Việt, dưới gót sắt của đế quốc Hán, đã không có bút mực nào diễn tả cho hết được. Năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, gây cảnh nội chiến, khiến cho đất nước, lần nữa lại rơi vào vòng nô lệ của giặc Mình, từ năm 1414-1427. Cũng may nhờ có Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, cầm đầu nghĩa quân cả nước, kháng chiến gian khổ trong mười năm ròng rã, mới đánh đuổi được giặc Minh chạy về Tàu, khôi phục lại non nước Tiên Rồng vào năm 1428 cho tới ngày nay. Ðể nói lên nổi thống khổ của dân tộc Việt, dưới ách bạo tàn , vô nhân đạo của bọn xâm lăng, đế quốc Tàu, qua mười mấy năm chiếm đóng. Nguyễn Trãi đã viết trong “Bình Ngô Ðại Cáo” :
“Quyết Ðông Hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô.
Khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác
Ðộc ác thay trúc rừng không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước bể không rửa sạch mùi”.
Tóm lại sinh mệnh của dân tộc Việt, qua suốt dòng lịch sử, đã không ngừng tranh đấu chống lại nền thống trị của giặc Tàu, tạo nên bản chất quật cường-bất khuất, mà người Việt coi như một thứ tôn giáo của dân tộc mình. Vì Việt Nam bị Bắc thuộc gần 1000 năm, nên sau này nhiều người đã ngộ nhận, cho là ta bị Tàu đồng hóa. Thật sự, qua hai mươi thế kỷ chống giặc Tàu xâm lăng, người Việt đã phát triển được một chiến lược kỳ diệu hữu hiệu. Ðó là vừa cứng rắn bảo vệ đất nước, đồng thời cũng rất mềm dẻo, khôn ngoan, thực tiễn khi chấp nhận đứng trong quỹ đạo của người Tàu, học hỏi những điều hay sự tốt, vừa tránh được phương Bắc kiếm cớ xen ngó nội tình.
Cho nên đừng ngạc nhiên, khi thấy nước ta vừa chiến thắng quân xâm lăng, lại phải sang triều cống, thần phục lấy lệ trong cung cách ngoại giao, chính trị. Hành động giao hảo khôn khéo trên của các Ðấng Minh Quân mọi thời trong dòng lịch sử Việt, khác hẳn với sự bưng bợ cầu cạnh và đầu phục kẻ thù cướp nước, mà Hồ Chí Minh cùng đảng Cộng Sản Việt Nam, luôn khua mép, toặc mồm và cuồng điệu, là chính sách đi giây, để cho tình hai nước thắm thiết vững bền, qua kim chỉ nam của thiên triều đã đề ra “bốn tốt, mười sáu chữ vàng”. Luận điệu tôi tớ bưng bợ chủ nhân trên, từ năm 1930 cho tới ngày nay vẫn không hề thay đổi, dù Việt Nam đã hết chiến tranh và là quốc gia có chủ quyền, độc lập cũng như sức mạnh quân sự, tuy có thua kém giặc Tàu nhưng nếu kết hợp được toàn dân, vẫn dư sức bảo vệ được đất nước, bất cứ lúc nào khi ta bị ngoại xâm như tùng xãy ra trong quá khứ.
Mùa thu năm 1945, vừa chiếm được chính quyền, Hồ Chí Minh cùng đảng cọng sản Việt Nam, lúc đó đang núp dưới chiêu bài của Mặt Trận Việt Minh, đã tìm đủ mọi cách đưa quân viễn chinh Pháp từ Nam Kỳ, đổ bộ lên miền Bắc. Sự hiện diện của thực dân Pháp lúc đó, đã giúp Việt Minh hợp pháp chính quyền, đang bị sự chống đối mãnh liệt, của các đảng phái quốc gia.
Cuối năm 1949, Mao Trạch Ðông chiếm toàn bộ nước Tàu, đuổi Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Ðài Loan. Ngày 10-1-1950, Trung Cộng tức Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, là nước đầu tiên trên thế giới công nhận Việt Minh. Sau đó, Hồ Chí Minh bí mật sang Tàu xin viện trợ và được đàn anh đáp ứng đầy đủ, từ A tới Z (kể cả quan tướng chỉ huy trận Ðiện Biên Phủ năm 1954), và sau này qua hai cuộc chiến Ðông Dương từ 1950-1975.
Cũng từ đó, Việt Nam đã trở thành nô lệ của Trung Cộng, vì viện trợ và nợ nần, nên tất cả các lảnh đạo đảng mọi thời đã bí mật hứa hẹn đủ điều, trong đó có việc cắt đất để đền đáp ơn nghĩa. Làm đầy tớ ngoại bang trắng trợn nhưng ngoài mặt thì đóng kịch, qua các danh từ hoa mỹ “quan hệ xã hội chủ nghĩa anh em, sông liền sông núi liền núi, môi hở răng lạnh” để ca tụng sự thắm thiết giữa hai đảng cọng sản quốc tế.
Ngày 1-5-1975, sau khi tóm thâu được toàn bộ Việt Nam, cọng sản Hà Nội theo Liên Xô, phản lại Trung Cộng tính quịt nợ, nên thù hận giữa hai đảng bốc cháy từ đó. Tháng 12-1978, Việt Nam sang lật đổ Polpot, vốn là đàn em của Ðặng Tiểu Bình , nên bị Trung Cộng trả đũa, gây cuộc chiến Hoa-Việt, tại biên giới vào tháng 2 và 3-1979, giết chết cả trăm ngàn binh lính của hai phía cũng như đồng bào vô tội. Các tỉnh thượng du Bắc Phần như Lào Kai, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Hải Ninh, Lạng Sơn và Tuyên Quang bị Trung Cộng san thành bình địa, cũng như cướp bóc, chiếm đất, để trừ nợ cũ mà Hồ Chí Minh và Việt Cộng đã vay từ trước tới nay.
Tình giao hảo giữa hai đảng coi như rút cầu đóng cửa, trong suốt thời gian từ 1980-1991, khi Việt Cộng theo hẳn Liên Xô và gia nhập khối kinh tế Ðông Âu, mở các quân cảng Cam Ranh, Ðà Nẳng, Hải Phòng cho Hạm Ðội Liên Xô vào trú đóng, mong dựa lưng chủ mới Nga, chống lại Tàu .
Năm 1991 toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa suy sụp tại Liên Xô, Ðông Âu và nhiều nước trên thế giới, khiến cho Việt Cộng vì muốn cứu đảng, nên phải quay về chầu phục chủ cũ là Trung Cộng. Ðể được tha tội cũng như có chỗ dựa lưng, hầu giữ vững đảng và miệng ăn, nên Việt Cộng đã đem chủ quyền quốc gia dâng bán cho kẻ thù không đội trời chung là giặc Tàu, Và cũng vì “thà chịu mất nước, chứ không bao giờ để mất đảng”, nên Việt Cộng đã cả gan, tiến hành cái gọi là “chính sách bình thường hóa quan hộng Sản Việt Nam lúc đó còn tìm đủ mọi cách để xin thiên triều chấp thuận cho Việt Nam được trở thành một khu Tự Trị như Tây Tạng hay Tân Cương, trực thuộc quyền lãnh đạo của Bắc Kinh. Tất cả nội dung cuộc họp giữa hai đảng Việt Cộng và Trung Cộng, đã được cụ thể hóa bằng “Thỏa thuận Thành Đô (4/9/1990)”. Đây là một thỏa ước mang tính chát phản quốc, với một nội dung hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam, mà hậu quả là sự thảm họa ngày nay do giặc Tàu mang đến cho Dân Tộc Việt. Mức độ thảm họa chạy đua với thời gian cho tới giai đoạn cuối cùng là 2020 dứt điểm, xóa tên nước Việt trên bản đồ thế giới, vì đã thành một quận huyện của Trung Cộng, do chính những người tham gia đàm phán Thỏa thuận Thành Đô đã ký bán như đã ký bán hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng năm 1958.
Hai mươi bốn năm trôi qua (1990-2014) kể từ ngày ký “Thỏa thuận Thành Đô”, hậu quả nguy hiểm đến mức độ nào, không ai dám hay có thể lường được, kể cả những ai trong đảng Cộng Sản Việt Nam ai từng tham dự còn sống. Bọn phản quốc này (lớp trước cũng như lớp sau), khi nội vụ bị phanh phui đổ bề, bề ngoài giả bộ như không có gì hết hay bị bắt buộc phải lên tiếng thì lại cố viện dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, để mong xóa bài làm lại ván khác khi con tảy đã bị lật ngữa một cách trơ trẽn hãi hùng. Cuối cùng để bịt miệng cả nước, Việt Cộng lại ra lệnh cấm không được nhắc tới vụ Thành Đô vì đây là bí mật quốc phòng và đời tư lãnh tụ .
Tất cả cũng đều do sự lo sợ đảng phải sụp đổ như tại Liên Xô và Đông Âu, khiến cho một số lãnh tụ Việt Cộng hoảng hốt. khi nghĩ tới hậu quả của cuộc đổi đời (nếu có) sẽ xãy ra cho chúng, với những nợ máu đã gây ra cho đồng bào khắp cả nước. Đó là nguyên nhân chính dẫn tới sự thay đội lập trường một cách đột ngột của bộ chính trị Cộng Sản tại Hà Nội lúc đó, đã chấp nhận kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng – từng xâm lăng gây điêu linh tang tóc cho Dân Tộc Việt tại biên giới từ năm 1979-1989, cướp Trường Sa năm 1988, nên đã bị ghi vào Hiến pháp 1980 là : kẻ thù nguy hiểm và truyền kiếp”. Thế nhưng “kẻ cướp” bổng hiên ngang trở thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ nghĩa và một thỏa thuận bí mật (?) được ký ngày 4/9/1990 tại Thành Đô (Tứ Xuyên), giữa hai đảng Việt Cộng và Trung Cộng với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng (VC) và Tổng Bí thư Giang Trạch Dân cùng Thủ tướng Lý Bằng. (TC).
Đây là nỗi bất hạnh và nhục nhã lớn của Dân Tộc Việt, nên khiến cho vận mệnh của đất nước phải lọt vào tay của một chế độ luôn sống trong ảo tưởng về sự bách chiến bách thắng của cái gọi là “ xã hội chủ nghĩa “ mà hiện tại gần như đã tan rã hoàn toàn, dù có còn lại bốn nước là Việt Cộng, Trung Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba… Tệ hơn Việt Cộng còn coi Trung Cộng như bậc thầy vĩ đại để nương tựa và giữ đảng, nên đã nhắm mắt làm ngơ, trước những tham vọng xâm lăng Việt Nam, từ đất liền ra tới biển đảo, kể cả kinh tế, xã hội, văn hóa… gây cho ta không biết bao nhiêu là tổn thất thật to lớn.
Việt Nam ngày nay đã phải gánh chịu những thảm họa tàn khốc vì cái gọi là “Thỏa Ước Thành Đô 1990”. Từ đó, đảng Cộng Sản Việt Nam coi như lệ thuộc hẳn đảng Cộng Sản Trung Cộng về chính trị, nhất là các chóp bụ lãnh đạo và bộ chính trị đều phải là người do Bắc Kinh đề bạt hay chỉ định, mới có thể theo đúng đường hướng do thiên triều đề ra mà thi hành. Do đó ta thấy các thành phần ngoài đảng hay đi chệch hướng đều bị Trung Cộng loại trừ. Tóm lại muốn sống yên, Cộng Sản Việt Nam phải răm rắp theo đúng phương châm “bốn tốt, mười sáu chữ vàng” trong hai lãnh vực song phương và thân phân tớ chủ trong bang giao quốc tế…
Vì hầu hết guồng máy Quốc Gia do phe thân hay vây cánh của Trung Cộng nắm giữ, nên chúng đã thẳng tay thao túng làm lũng đoạn nền kinh tế, tài chánh Việt Nam, qua các vụ trúng thầu khai thác các dự án xây dự, khại quặng mỏ, hợp đồng thương mại, nông nghiệp…  mọi thứ hầu như đều nằm gọn trong tay Trung Cộng. Giặc đã dùng áp lực kinh tế đó, bó buộc người dân Việt Nam phải cúi đầu làm nô lệ cho chúng, qua những tên cai tù, an ninh bản xứ mang danh xưng công an, bộ đội nhân dân…
Cuối cùng Việt Nam ngày nay là một nhà kho, bãi rác khổng lồ qua danh từ hào nhoáng “kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa” mà thực chất là chỗ để cho Trung Cộng tống khứ tất cả những thứ rác rưỡi mang nhãn hiệu “made in China”  bị cả thế giới tẩy chay vì hàng giả, hàng dõm, hàng chứa chất độc… từ giầy dép, quần áo, máy móc, thuốc tây… cho tới thức ăn, thịt, gạo, trái cây và vàng, đô la giả, thuốc phiện… ngày qua ngày đầu độc người bản xứ và thế giới, sau khi đổi thành nhãn hiệu “made in Việt Nam”.
Cùng lúc, gần như tài nguyên khắp nước Việt Nam đã bị Trung Cộng vơ vét chuyển về Tàu, qua sự đồng lõa và bán đứng của Cộng Sản Hà Nội. Hỡi ơi chỉ mới từ năm 1990 tới nay, qua thỏa uớc Thành Đô, Việt Cộng đã tiếp tay giúp Trung Cộng xây dựng ngay trên đất nước mình, một đạo quân Tàu qua hình thức lao động, hầu như có mặt khắp nước lấy vợ sinh con nói tiếng Hoa và thành Tàu trên đât Việt. Đây cũng chính là mạng lưới gián điệp Tàu tại hải ngoại, trong âm mưu thâu tóm Việt Nam khi hữu sự, giống như Ukraine tại Hắc Hải trong tương lai gần.
Ngày xưa, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh, chỉ vì trong thế kẹt vạn bắt đắc dĩ, nên bó buộc phải ký dâng đất cho giặc. Thời nhà Nguyễn, Vua Tự Ðức cũng chỉ vì thua kém quân sự, nên buộc lòng phải ký kết những hiệp ước vô lý với kẻ thù. Thực dân Pháp trong thời gian đô hộ nước ta, vì quyền lợi của chúng, cũng cắt nhiều đất của Việt Nam cho Tàu tại biên giới, đó là điều không thể tránh được với một quốc gia đã mất chủ quyền. Thời Việt Nam Cộng Hòa, chịu mang tiếng là đánh giặc mướn cho Mỹ để kiếm cơm, nhưng qua 20 năm tồn tại, từ Tổng Thống Diệm tới Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã không hề bán nhượng hay làm mất một phân đất của tổ tiên, ngoại trừ tháng 1-1974, qua áp lực của Mỹ và bị Việt Cộng đâm sau lưng, nên để mất quần đảo Hoàng Sa trong máu hận, sau khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã tử chiến với giặc Tàu và gây cho chúng nhiều thương vong thiệt hại.
Do trên, cả nước phải nặn óc đi tìm động cơ, đã khiến đảng Việt Cộng phải liều mạng hành động bán nước. Bởi vì trong lúc cầm bút ký vào văn kiện, những chóp bu của đảng từ Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười, Phạm Văn Đồng, Lê Ðức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương và Phan Văn Khải, sau đó đều trở thành tỷ phú đô la, gần như bị bắt buộc, để cố tình bỏ qua những yếu tố lịch sử về Vịnh Bắc Việt, về biển Ðông của Việt Nam, đã có tự ngàn năm trước. Tóm lại Trung Cộng và Việt Cộng đã đồng thuận sử dụng luật rừng khi ký kết, mà bất chấp công lý, luật lệ và những công ước quốc tế, liên quan tới sự phân đinh lãnh hải giữa hai nước, vốn đã có từ lâu đời. Có như vậy, những chóp bu của đảng Việt Cộng, nói là lương tháng chỉ lãnh có 250 tiền US, nhưng ai cũng được xếp vào hàng tỷ phú thế giới hiện nay.
Việt Cộng vì quyền lợi cá nhân và đảng, đã gây thiệt hại cho quốc gia về lãnh thổ, khiến dân tộc mất danh dự và trên hết là tạo sự bất hạnh cho đồng bào ngư phủ Việt Nam, khi phải hành nghề trên biển cả, phải bị giặc Tàu bắn chết, vì tội xâm phản lãnh hải của chính nước mình. Hỡi ôi, chỉ vì muốn được làm nô lệ cho Trung Cộng, đảng Việt Cộng đã làm mất của Việt Nam hơn 11.930 km2 biển. Riêng Hiệp Ðịnh gọi là Hợp Tác Nghề Cá, chưa hề được quốc hội thảo luận, cũng như biểu quyết phê chuẩn, nhưng Việt Cộng lẫn Trung Cộng vẫn tuyên bố, cùng có hiệu lực như Hiệp Ðịnh Vịnh Bắc Bộ vào ngày 30-6-2004, mà hậu quả trước mắt là cảnh dân chúng bị bắn giết dã mang.
Một bức ảnh mới nhất từ cơ quan truyền thông Nhật Bản và Ấn Độ, chụp toàn cảnh bãi Gạc Ma (tên quốc tế là Johnson South Reef), nguyên là của Việt Nam bị Trung Cộng cưởng đoạt năm 1988, vào ngày 29/07/2014, là bằng chứng để tố cáo Trung Cộng đang nổ lực xây dựng các cơ sở dùng làm phòng tuyến quân sự, trong mưu đồ chiếm trọn quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Bằng chứng xác thực, cộng với hoàn cảnh nguy ngập của nước nhà cũng như lời phán ngạo mạn đầy máu tanh của Tập Cận Bình “Biển Đông là lãnh thổ của chúng”. Cho nên sông có thể cạn, núi cũng sẽ mòn còn quyết tâm đồng hóa và tiêu diệt Việt Nam thì không bao giờ thay đổi !
          Xóm Cồn Hạ Uy Di – Cuối tháng 8-2014 - Mường Giang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét