Pages

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Vàng Sao xuống vàng mắt



Người xuống đường năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ? 

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Thời chiến tranh “chống Mỹ” phá nước Việt Nam Cộng Hòa do Hà Nội phát động, một số thanh niên, sinh viên và trí thức Miền Nam, vì những lý do cá nhân khác nhau, đã chạy vào bưng/lên núi/lên xanh theo “cách mạng” để “giải phóng” quốc gia họ đang là công dân. Trong số người “lên xanh” (1) với nhiệt huyết hừng hực hồ hỡi phấn khởi nhất, có chàng trai xứ Huế ra đi với lòng trần phất phới như ngôi Sao Vàng trên nền cờ đỏ lộng gió, nhưng khi “cách mạng” phá chưa xong VNCH, mới ra đến thiên đường XHCN trên đất Bắc, Vàng Sao đã rụng xuống thành vàng mắt.


Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính sinh năm 1941 tại Thừa Thiên, đậu Tú Tài năm 1962, rồi dạy học ở Truồi. Theo nhà báo Mặc Lâm của RFA thì, “từ năm 1965 tới năm 1970 ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành Ủy Huế. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng và trong thời gian này do quan sát cuộc sống và sinh hoạt chính trị tại Hà Nội khiến ông viết nhật ký miêu tả lại những suy nghĩ thất vọng của mình về điều mà ông được tuyên truyền trước đây. Chính tập nhật ký này khiến ông bị bắt và kéo dài nhiều năm khốn khó trong lòng chế độ.”

Trần Vàng Sao đã ghi lại những gì về “thiên đường” mà ông đã bỏ công lặn lội “lên xanh” (1) rồi vược ngược Trường Sơn ra Bắc để được nếm trong tập nhật ký ấy khiến “ông bị bắt và kéo dài nhiều năm khốn khó trong lòng chế độ”? Khỏi mất công đọc dài dòng, ta chỉ cần đọc vài vài lời nói đầu của Lữ Phương, cũng là gốc “đồng chí” với Trần Vàng Sao, trong phần giới thiệu cuốn hồi ký mang tên “Tôi bị bắt”:

“Cuốn hồi ký này kể lại cái tai họa đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh: ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đã ghi lại những suy nghĩ của mình về cái gọi là “hậu phương xã hội chủ nghĩa” đó, bằng nhật ký và chính vì những suy nghĩ ghi thành chữ viết này, anh bị các đồng chí của mình truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó”.

Vẫn lời của người đồng hội đồng thuyền với Trần Vàng Sao, ông Lữ Phương:

“Trong rừng, tôi đã biết một số trường hợp những trang nhật ký bị tố cáo, nhưng chưa nghe thấy có trường hợp nào sự tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường hợp của Trần Vàng Sao.” Và:

“Rõ ràng đây là sự thất vọng trầm trọng của một người trí thức ở miền Nam khi họ bỏ lên rừng”

Từ một kẻ được ăn cơm quốc gia, được giáo dục trong một nền văn hoá nhân bản, làm thầy giáo, được tự do xuống đường “đả đảo Thiệu Kỳ”, công dân VNCH Nguyễn Đính đổi họ Trần, phất cờ Vàng Sao, lên rừng “tìm đường cứu nước”, để đi đến chỗ như anh cho biết anh không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó”. Và rồi: 

“Sau tháng Tư năm 1975, Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng ông bị gạt khỏi danh sách như một kẻ “có vấn đề”; ông tự trở lại Huế làm liên lạc (2) ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là Vỹ Dạ), Huế cho đến nghỉ hưu năm 1984” (theohttp://nguyentrongtao.vnweblogs.com/post/1890/199687)

Để thấu hiểu được phần nào nỗi lòng Vàng Sao rụng xuống vàng mắt, không gì hơn đọc lời tự bạch của chính “nhà thơ nổi tiếng”:

Nhà thơ TRẦN VÀNG SAO Nguồn internet

tau chưởi
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần
rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng đòi ăn
hai con mắt bây đứng tròng
bây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hô
cha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bây
sống dai đời đời kiếp kiếp
phải quỳ gối cúi đầu
nghe bây nói không được cãi
phải suốt đời làm người có tội
vạn đợi đội ơn bây
đứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống
thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người tránh nhau
bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản động
đồ chống đối
đồ không đá bàn thờ tổ tiên
đồ không biết đốt chùa thiêu Phật
thượng tổ cô bà bây
mụ cô tam đợi mười đời bây
tau xanh xương mét máu
thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết hết à
tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không chừa
năm năm mười năm hai mươi năm
xương chân xương tay sọ dừa vải liệm`
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan bây còn kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây

Trần Vàng Sao. 
29 tháng 6 năm 1997


_______________________________________________

Ghi chú:

(1) Dân Huế hồi đó gọi “lên xanh” là lên núi (theo VC): 
(2) Miền Nam gọi là “tuỳ phái” tức chạy việc sai vặt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét