Pages

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Đời đời người Việt không quên Tết Mậu Thân


Liên Thành


Gần 42 năm trôi qua kể từ Tết Mậu Thân 1968, một quảng thời gian không phải ngắn cho một đời người, nhưng đối với người dân Huế và thân nhân của 5327 nạn nhân trong cuộc tàn sát mà Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam ra lệnh cho Khu Ủy Trị Thiên qua Chính ủy mặt trận Huế là Lê Chưởng áp dụng biện pháp “Bạo lực cách mạng” hay “Bạo lực đỏ” tàn sát đẩm máu đồng bào Huế chỉ vì họ không tham gia cuộc “Tổng mỗi dậy” do Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương thực hiện tại Cố đô Huế trong những ngày đầu xuân Mậu Thân 1968, thì bốn mưoi hai năm trôi qua quả quá ngắn để hàn gắn những đỗ nát đau thương, những chua xót ngậm ngùi trong lòng mọi người dân Huế.

Biến cố lịch sử kinh hoàng nầy vẫn còn mới, còn đau và còn rĩ máu, bởii vì: nợ vẫn chưa được trả, công bằng và công lý vẫn chưa có.
Tôi, Liên Thành người đã có mặt trước, trong, và sau khi xẫy ra cuộc chiến Mậu Thân tại Huế, viết lại mấy dòng nầy, như là một bổn phận cho những người dân vô tội và chiến hữ của tôi đã ngã xuốngtrong biến cố đau thương nầy.
Mậu Thân 1968
Tháng 5 năm 1967, Hồ chí Minh chủ tọa phiên họp của Bộ chính trị trung ương đảng CS Việt Nam để duyệt xét tình hình và kế hoạch cho Chiến dịch đông xuân 1967-1968. Kế đến, từ ngày 20 đến ngày 24/10/1967, tại phiên họp của bộ chính trị, thay mặt Quân ủy trung ương, Tướng Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo chiến dịch Đông- Xuân- Hè 1967-1968. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc công kích, tổng nỗi dậy vào đúng Tết Mậu Thân 1968.
Như vậy cuộc TCK tổng nỗi dậy đã được bọn chúng quyết định vào tháng 10/ 1967. Để đánh lừa, tạo yếu tố bất ngờ, HCM tráo trở đề nghị hưu chiến 7 ngày trong dịp Tết Mậu Thân, nhưng chính phủ VNCH chỉ chấp thuận 3 ngày mà thôi.
Những họat động của Việt Cộng trước khi bọn chúng phát động cuộc tổng công kích đã được BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế ghi nhận như sau:
Tin tình báo kỷ thuật
Khỏang từ ngày 10/12/1967, gần 20 ngày trước cu65c tấn công, cơ quan tình báo dân sự đồng minh đã có một lọat không ảnh chụp được tại những vùng núi phía tây thành phố Huế như vùng thượng nguồn sông Bồ, sông Hữu Trạch, Khe Trái, động Chuối[núi Kim Phụng], không ảnh cho thấy một số lượng đông đảo các đơn vị của Việy Cộng đang tập trung tại các vùng trên.
Tin tình báo kỷ thuật cũng ghi nhận một số điện đài của các đơn vị lớn VC đang họat động trong những vùng nầy.
Tôi đã được cơ quan tình báo dân sự đồng minh thông báo đầy đủ.
Đồng thời họ cũng yêu cầu tôi xử dụng lực luợng tình báo cơ hữu Cảnh Sát Đặc Biệt để phối kiễm và xác nhận thêm các tin tức trên.
Lực luợng CSĐB của BCH/CSQG Thừa Thiên Huế, ngoài ngoài 13 ban đặc biệt của 13 quận thuộc tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế, chúng tôi còn có những tóan tình báo xâm nhập vào hằng ngũ địch trực thuộc Ban Họat Vụ sau nầy gọi là G công tác. Tất cả những đơn vị tình báo nầy đều bá cáo về BCH tỉnh những tin tức tương tự giống nhau:
- Dân chúng những vùng D, F [lượng giá tình hình an ninh] điều được cở sở VC địa phương thông báo “ Mọi gia d8ình trong vùng đều phải mua trử lương thực, dự trử thuốcc men, chuẩn bị cho một cuộc đánh lớn sắp xẩy ra.
- Một số cán bộ CS từ cấp huyện trở lên cũng đã đượcc lệnh rời khỏi địa bàn họat động lên mật khu hội họp.
- Thành phố Huế có 8 Chi bộ đảng CS và khỏang 80 cơ sở đảng bí mật đã có những họat động khác thường, bọn chúng tiếp xúc với nhauthường xuyên hơn.
- Các trạm giao lien nội thành có rất nhiều kẻ lạ xuất hiện.
- Nhiều cơ sở nằm vùng trong nội thành được điều động lên mật khu hội họp do Khu ủy Trị Thiên tổ chức. Bọn chúng rời thành phố vào đầu tháng 12/1967 và trở lại thành phố vào gần cuối tháng 12/1967.
Đương nhiên trong số những cơ sở lên lên họp trên mật khu có cơ sở nội tuyến của chúng tôi, vì vậy khi họ trở về chúng tôi nhận được bá cáo của họ như sau:
“Khóa học tập nầy có khỏang 300 can bộ và khoảng 130 cơ sở nòng cốt nội thành. Nội dung học tập là phương thức phát động quần chúng nỗi dậy tai nông thôn và đô thị. Nhiệm vụ của họ là sau khi trở về địa bàn họat động thành lập các đội công tác làm nòng cốt phát động quần chúng tổng nỗi dậy khởi nghĩa”.
Cũng cần nói rõ thêm trong số những cơ sở nội thành được điều lên mật khu có cả Giáo sư Đại Học Huế Lê văn Hảo và một số sinh viên đại học Huế, bọn chúng là cơ sở nội thành VC.
- Các thành phần tranh đấu năm 1966 thân cận của ông Thích Trí Quang đã thóat ly lên mật khu vào cuối tháng 6, tháng 7/1966, nay trong những ngày cận Tết đã đột nhập thành phố Huế và đang trú ẩn tại các căn cứ lõm của bọn chúng trong thành phố.
Căn cứ vào những sự việc nêu trên, cọng vào một số dự kiện khác chúng tôi cơ quan tình báo CSQG Thừa Thiên-Huế và cơ quan tình báo dân sự Hoa kỳ sau khi đã phân tích, lượng giá tin tức chúng tôi cùng đi đến kết luận chung là:
Việt Cộng sẽ tấn công Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968.
Thế nhưng, cho đến ngày hôm nay, đã trên 42 năm trôi qua, câu hỏi mà nhiều ngừoi vẫn hỏi tôi:
“ Tại sao tin tức tình báo của CSQG và tình báo dân sự Hoa kỳ đầy đủ và chính xác như vậy mà thảm họa vẫn xẫy ra cho Huế:
VC tấn công và chiếm Huế 26 ngày, giết chết 5327 thường dân vô tội, bắt đi mất tích 1200 người. Tại sao?”
Có những điều sau đây có thể lý giải một phần nào:
- Bản chất người quốc gia quá thiệt thà, lương thiện, bị Hồ chí Minh và đảng Cộng Sản phỉnh gạt, lợi dụng
hưu chiến 3 ngày. Chính quyền miền Nam cũng như đồng bào không thể ngờ Hồ chí Minh và đảng Cộng Sản tán tận lương tâm đến độ lợi dụng những ngày Tết thiên liêng của dân tộc bất thần xua đại quân chém giết đồng bào, sát hại sinh linh vô tội.
Muôn vạn đời sau, mỗi độ tết về, lịch sử lại nhắc rằng, bọn Cộng Sản Việt Nam đã vô lương tráo trở, cuồng sát đồng bào Huế trong Mậu Thân 1968.
- Các cấp chỉ huy đã thiếu trách nhiệm, không có kế hoạch phòng thủ Huế.
- Các cấp chỉ huy Tỉnh, CSQG, Tiểu Khu đã cho lệnh xã trại 50% quân số, nên khi bị địch tấn công, không đủ lực lượng để phản công.
- Quan trọng nhất là tin tức tình báo từ CSBĐ thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên Huế,một phúc trình rất đầy đử đích thân tôi đưa trình cho Ông Truởng Ty Đòan Công Lập nhưng ta bị ông ta ém nhẹm. Lý do ông ta là cơ sở mội tuyến cho cơ quan tình báo Việt Cộng, cán bộ Việt Cộng chỉ huy ông ta là tên Trung Tá VC điệp viên Hòang Kim Loan. Khi tôi trình bản tin với một số biện pháp đề nghị thì ông Đòan Công Lập lý luận rằng:
“Loan tin nầy chỉ sẽ làm kinh động dân chúng, chắc gì có thật”.
Trong thời gian nầy chúng tôi và tóan cố vấn tình báo dân sự Hoa Kỳ đã phát hiện Đòan công Lập là nội tuyến, chúng tôi đang phối hợp mật theo dõi đương sự.
Theo nguyên tắc chỉ huy, tôi không thể vuợt quyền, nhưng vì tình hình đã quá khẩn cấp và nghiêm trọng, tôi trực tiếp gặp Trung Tá Phan văn Khoa Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên để cố thuyết phục ông ta phải có kế hoạch phòng thủ thành phố, còn nuớc thì vẫn còn phải tát. Nhưng rũi thay ông chỉ ừ hử cho qua chuyện mà không thèm để ý đến bản phúc trình của viên trung úy Phó Ty CSĐB mới 25 tuổi đầu non choẹt như tôi.
Kết quả Mậu Thân 1968 tại Huế thảm khốc hơn các nơi nào hết trên tòan cõi miền Nam Việt Nam với cái giá phải trả cho sự thiệt thà, ngây thơ, tắc trách, vô trách nhiệm, phản bội, của một số giới chức chính quyền Huế là:
5327 thường dân vô tội bị Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tàn sát, bắt đi mất tích 1200 người.
Thi hành chỉ thị tàn sát đồng bào Huế của Hồ Chí Minh và bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam ngoài Lê Chưởng còn có những nhân vật sau đây:
1- Đại tá Nguyễn Mậu Huyên từc Bảy Lanh, tức Nguyễn Đình Bảy truởng ban An Ninh Tỉnh ủy Thừa Thiên, Thị ủy Huế.
2- Đại Tá Lê Tư Minh tư lệnh mặt trận Huế
3-Tống Hoàng Nguyên Trưởng Ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên-Huế.
4- Hoàng Phương Thảo Thuờng vụ Thành ủy Huế.
5- Trung Tá điệp viên Hoàng Kim Loan, Thành ủy viên Thành ủy Huế phụ trách “Tổng nỗi dậy”.
Họ xử dụng một số cơ sở nội thành Việt Cộng như :
1- Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tuờng,
2- Sinh viên Y khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan,
3- Nguyễn Đắc Xuân Sinh viên sư phạm ban Việt Hán,
4- Sinh viên luật khoa Nguyễn Thiết
5- Nữ Sinh viên dược khoa Nguyễn Thị Đoan Trinh,
6- Sinh viên Lê Hữu Dũng,
7- Nguyễn hữu Vấn, Giáo sư trường Quốc Gia âm Nhạc và kịch nghệ
8- Giáo sư Tôn Thất Duơng Tiềm, trường trung học Bồ Đề
9- Giáo sư Nhân chủng học thuộc viện Đại Học Huế Lê Văn Hảo 10- Cựu giám thị trường Quốc Học Huế Nguyễn Đóa cũng là cha vợ của Tôn Thất Duơng Tiềm.
11- Bà Đào thị Yến thuờng đuợc gọi là Bà Tuần Chi nguyên hiệu truởng truờng nữ trung học Đồng Khánh Huế.
12- Cha con ông Thiên Tuờng chủ tiệnm thuốc Bắc tại vùng An Cựu. Ông Thiên Tuờng là cha nuôi Đại Tá Công An Việt Cộng Nguyễn đình Bảy tức Bảy Lanh từ lúc Bảy Lanh còn nhỏ.
13- Tên Nguyễn Bé thợ nề, chủ tịch khu phố tại Quận II, thị xã Huế.
14- Tên thầy bói Diệu Linh ở khu phố Gia Hội, Quận II thị xã Huế.
Và một số đông các cơ sở nội thành của Việt Cộng nằn vùng từ lâu trong học sinh, sinh viên, công chức, cảnh sát, tiểu thuơng, thuơng gia.
Đặc biệt những kẻ đội lốp tu hành như Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật Giao Ấn Quang miền Vạn Hạnh, trù trì chùa chùa Linh Mụ, Thích Thiện Siêu Chùa Từ Đàm v.v…
Để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích, tổng nỗi dậy tại Huế, vào ngày 21 tháng 1 năm 1968 trước trận đánh Mậu Thân, Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gởi mật điện cho Trung ương Cục Miền Nam, Khu Ủy khu 5, và Khu ủy Trị Thiên-Huế yêu cầu Phạm Hùng, Võ Chí Công, Tướng Trần văn Quang thành lập mặt trận chính trị thứ hai lấy tên là Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Tổ chức chính trị nầy được dựng lên nhằm phân hóa chính quyền miền Nam, tập hợp những cá nhân chống chính quyền miền Nam, chống Mỹ cũng như bất cứ tần lớp dân chúng nào họ có thể lối kéo.
Tại Trị Thiên-Huế, Liên minh này đuợc Thiếu Tuớng Trần văn Quang Tư Lệnh chiến truờng Trị Thiên-Huế và Lê Chưởng Chính ủy chiến trường cho lệnh thành lập truớc ngày giờ tấn công Huế, với thành phần gồm có:
1- Chủ Tịch
Ông Lê Văn Hảo, giáo sư Nhân Chủng Học Viện Đai Học Huế
2- Phó chủ Tịch
Ông Thích Đôn Hậu Chánh Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất miền Vạn Hạnh.
3- Tổng thư Ký
Ông Hòang Phủ Ngọc Tường nguyên giáo sư Trường Quốc Học. Đương sự cùng với em ruột là Hòang Phủ Ngọc Phan thoát ly lên mật khu vào tháng 6/1966 sau vụ tranh đấu của Thích Trí Quang tại miền Trung.
4- Phụ trách Học Sinh, Sinh Viên Giải Phóng
Ông Nguyễn Đắc Xuân nguyên Sinh viên Đại Học Sư Phạm ban Việt Hán. Đương sự thóat ly lên mật khu vào tháng 7 năm 1966 sau vụ tranh đấu vào tháng 6/1966 của Thích Trí Quang.
Ngoài ra trong suốt hai mươi sáu ngày Việt Cộng chiếm Huế, Ông Lê Văn Hảo còn được giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế. Bà Đào Thị Xuân Yến tức Tuần Chi giữ chức Phó Chũ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên Huế. Sinh viên Nguyễn Đắc Xuân giữ chức vụ Trưởng Đòan An Ninh và bảo vệ khu phố hay gọi là Đội tự vệ thành. Các nhân vật Hòang Phủ Ngọc Phan, Tôn Thất Dương Tiền, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Nguyễn Dũng, Nguyễn Thiết, Nguyễn Đóa v.v… đều ở trong đoàn An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân.
Ngoài ra Nguyễn Đắc Xuân còn đứng ra tổ chúc đòan Nghĩa Binh Cảnh Sát và giao cho Ông Nguyễn Văn Cán Quận Trưởng CSQG nguyên là Trưởng Ty CSQG Thị Xã Huế làm Truởng Đòan, và đòan Nghĩa Binh Quân nhân.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được Hoàng Lanh và Trung Tá Hòang Kim Loan Thành Ủy Viên Thành Ủy Huế bổ nhiệm Chủ Tịch Tòa án Nhân Dân tại truờng tiểu học Gia Hội thuộc Quận II thành phố Huế. Nguyễn Đắc Xuân và Hòang Phủi Ngọc Phan được giữ chức Chủ Tịch Tòa Án Nhân dân tại Quận I trong Thành Nội Huế.
Rạng sáng mồng hai Tết Mậu Thân, đúng 2 giờ 33 phút, khởi đầu của 624 giờ đau thương, kinh hoàng. Từ rừng núi phía tây tràn vào, họ là “Quân Đội nhân Dân”, là “Quân Giải Phóng”, là những tên nằm vùng, những kẻ trí thức, giáo sư, sinh viên đã một thời tham gia trong phong trào tranh đấu Phật Giáo năm 1966. Họ đã thóat ly lên mật khu từ độ đó, nay theo lệnh của ông Hồ Chí Minh, của Bộ Chính Trị Đảng Công Sản Việ Nam trở lại Huế với guơm đao búa liềm, với mã tấu, với Ak47, với B40, bắn sập thành phố, thẳng tay chém giết hằng loạt dân lành vô tội nhằm trả mối hận xưa, để “giải phóng “ đồng bào Huế. Và Huế trong 624 giờ đồng hồ, đã trãi qua từng giây một,từng phút một, tùng ngày một với những tang tóc điêu linh, những máu và nuớc mắt của hằng chục ngàn ngừoi dân bỡ ngỡ, ngơ ngác trước sự hiện diện của cái ác không ai ngờ tới.
Trong trận Mậu Thân, cộng quân đã tung vào chiến trường Huế gần 10 ngàn quân trong đó có 4700 quân chính quy Bắc Việt. Số còn lại là quân MTGPMN, du kích của các Huyện, và đám cơ sở nằm vùng, những lực lượng của ông Thích Đôn Hậu và Thích Trí Quang trong vụ tranh đấu năm 1966.
Mười ngàn quân nầy không phục vụ dưới ngọn cờ đỏ sao vàng, cũng chẳng phục vụ dưới bóng cờ của MTGPMN mà phục vụ dưới ngọn cờ của Lien Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Hòa Bình do Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam mới thành lập mà Chủ tịch là giáo sư Lê văn Hảo, Phó chủ tịch là Thích Đôn Hậu, tổng thư ký là Hoàng Phủ Ngọc Tường và phụ trách học sinh, sinh viên trí thức là Nguyễn Đắc Xuân.
Bọn nằm vùng địa phương đã phối hợp với cộng quân để gieo rắc đau thương cho đồng bào Huế trong 624 giờ kinh hoàng đó. Huế đã dìu nhau chạy trốn trong bước chân khập khiễng và nỗi kinh hòang. Có thể nói ở Huế lúc đó mỗi thước đất là một thây người, là một vũng máu tươi chưa kịp đổi màu. Huế ngập trong thây ngừoi và biển máu, từ bờ cây bụi cỏ, đường lớn đường nhỏ, từ trong nhà ra đến sân, sân trước, sân sau!
Sáng ngày mồng hai, trời chưia sáng hẳn, một số lớn gia đình trong ba quận đã bị Việt Cộng và đám chỉ điểm xông vào từng nhà lục sóat tìm kiếm những “ công an, cảnh sát, ngụy quân, ngụy quyền” đang ẩn trốn đâu đó, và hằng lọat súng đã nổ bắn vào họ, nhưng người đang cố gắng trốn tránh, đào thóat khỏi nhà, tim đường về đơn vị.
Khoảng 6 giờ sáng, suơng chưa tan, trời trở lạnh và thấp, Huế bật khóc trong nghẹn ngào, đau đớn, khi trên kỳ đài Phú văn Lâu lá quốc kỳ không còn đó nữa. Thay vào đó là một lá cờ gồm 3 mảnh: Hai mảnh hai bên màu xanh nhạt, mảnh giữa màu đỏ có ngôi sao vàng. Dân chúng Huế cứ ngỡ là cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Thật tình không phải, cờ MTGPMN chỉ có 2 mảnh, một mảnh màu xanh nhạt, một mảnh màu đỏ giữa có ngôi sao vàng. Lá cờ treo trên Kỳ Đài Ngọ Môn là cờ của Liên Minh các lực Lượng Dân tộc, Dân Chủ và Hòa Bình.
Ngày mồng hai Tết, dân Huế bắt đầu chạy giặc từ 7 giờ sáng. Họ bỏ lại tất cả để chạy trốn. Nhà cửa tài sản bỏ lại đã đành, ngay quần áo cũng không kịp mang theo, thức ăn, nuớc uống cũng quên, chỉ mong rời khỏi nhà càng sớm càng tốt. Già trẻ, lớn bé, cha mẹ, con cái dắt dìu nhau tìm đường chạy trốn. Bọn Việt Cộng nổ súng vào đoàn người đang hổn loạn, hốt hoảng chạy tìm nơi bình yên trú ẩn. Thây người ngã ngục, máu đào dân lành tuôn rơi, tô đỏ cờ sao vàng của đảng Cộng Sản Việt Nam.
-Tại vùng Bến Ngự, Nam Giao, Từ Đàm dân chúng kéo nhau chạy trốn lên vùng nhà máy nước Vạn Niên gần đồi thong Quãng Tế sát cạnh chùa Từ Hiếu.Có nhiều đòan người chỉ đi được nửa đường thì bị bọn Việt Cộng pháo kích chận lại, nên đành phải quay trở về.
- Tại làng Phú Cam, lực lượng địch đã vây kín, dân chúng kéo nhau vào trú ẩn tại nhà thờ chánh tòa Phủ Cam.
- Riêng tại Quận III Thị xã Huế, từng đòan ngừoi từ vùng cầu Kho Rèn, dọc đường Phan Đình Phùng ,vùng An Cựu và xóm đạo dòng Chúa Cứu Thế, kéo nhau chạy trốn vào nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế, trường trung học Thiên Hựu.
- Dân cư vùng cầu số 7, vùng Hàng Me, khu vực Đập Đá, khu trường trung học Nguyễn Tri Phuơng kéo chạy vào trú tại trường trung học Kiễu Mẫu nằm sát cạnh Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế và BCH/Tiểu Khu.
- Tại Quận II thị xã Huế, một số ít dân chúng chạy trốn vào chùa Diệu Đế, chùa Ông, chùa Áo Vàng, trường trung học Gia Hội, đại đa số dân chúng còn lại trốn tại nhà.
- Tại Quận I thị xã Huế, dân chúng đều tìm đường chạy trốn về trú ẩn vùng Câu Kho, Mang Cá nơi có Bộ Tư Lệnh Sư Đòan I Bộ Binh của Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng che chở cho họ.
Trời đất như báo hiệu cho biết những ngày tang tóc của Huế đã bắt đầu đến. Không như năm trước, năm nay trời trở lạnh nhiều và cơn nưa phùn đã bắt từ ngày mồng hai Tết, kéo dài trong suốt 26 ngày, thời gian chiến cuộc tại Huế. Bầu trời u ám , mây xám đặc phủ cả thành phố. Huế trong cơn mưa lạnh giá buốt của đất trời, và trong nỗi sợ kinh hải của người dân đang chạy giặc.
Súng nổ từ khuya đến suốt ngày mồng hai Tết, và vẫn tiếp tục nổ…Lâu lâu trên bầu trời xám xuất hiện một chiếc máy bay quan sát L-19, hoặc môt chiếc trực thăng bay thật cao lạc lõng giữa bầu trời cố đô Huế, lập tức hằng lọat súng của Việt Cộng từ mọi nơi trong thành phố bắn lên máy bay. Hằng trăm, hằng ngản lọat đạn nổ rền làm tăng thêm nỗi thất vọng của mọi ngừoi.
Trong khi lực luợng quân sự của Việt Cộng đang tấn công vào những vị trí quan trọng trong thành phố, thì bộ phận chính trị, an ninh của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Quân Khu Trị Thiên-Huế phối hợp với ban An ninh Tỉnh Ủy, Thị Ủy Thừa Thiên-Huế cùng đám Việt Cộng nằm vùng bắt đầu tắm máu, tàn sát dân Huế.
Toàn bộ lực luợng an ninh do hai cán bộ cấp Khu chỉ huy là Tống Hoàng Nguyên, và phụ tá là Đại tá Công An Nguyên Đình Bảy tức Bảy Lanh .
Về chính trị, thành ủy viên Hòang Kim Loan và Hoàng Lanh phụ trách thành lập chính quyền Cach Mạng tại Huế và phát động quần chúng thực hiện cuộc “tổng nỗi dậy”.
Cả hai nhóm an ninh và chính trị nầy hoạt động song hành và kết hợp với lực lượng cơ sở nội thành gồm thành phần trí thức , sinh viên, những thành phần đã từng tham gia trong phong trào dấy lọan của ông Trí Quang, Đôn Hậu vào năm 1966. Những thành phần nầy tạo thành một lực luợng hùng hậu và sắt máu nhất, bọn chúng đã tàn sát dân Huế không một chút nuơn tay.
Ngay từ rạng sáng ngày mồng hai Tết, lực lượng an ninh Khu Ủy Tri Thiên và tỉnh thị ủy Thừa Thiên-Huề đã bắt một số ngừoi mà bọn chúng đã có sẵn danh sách và đem giam tại Tòa Đại Biểu chính phủ VNCH tại đương Lê Lợi thuộc Quận III thị Xã Huế.
Sáng ngày mồng ba Tết tức ngày 3 tháng 2 năm 1968 dương lịch, Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh, Hoàng Kim Loan, nhận lệnh trực tiếp từ Lê Chưởng, chính ủy mặt trận Huế bắt đầu thi hành Nghi quyết của Bộ chính trị là “tổng nỗi dậy, thiết lập chính quyền cách mạng”. Thành lập mặt trận thứ 2 lấy tên là Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình [Mặt trận thứ nhất là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam] và lùng diệt, truy quét thành phần ác ôn, tàn binh “ngụy”, Công an Cảnh sát “ngụy”, các thành phần tay sai làm cho tình báo CIA.
Đây là những chi tiết được biết sau nầy theo lời khai của Thành ủy viên Hòang Kim Loan bị Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế bắt vào mùa hè đỏ lửa tháng 5/1972.
Phân công của các cán bộViệt Cộng
1- Thanh lập chính quyền cách mạng cấp quận, tỉnh và chuẩn bị “tổng nỗi dậy” ngừoi lãnh đạo và phụ trách hai công tác nầy là Thành ủy viên Hòang Kim Loan và Hòang Lanh.
Sáng ngày mồng hai Tết, sau buổi mít tinh tại Quận I và Quận II ,với đám cơ sở nằm vùng, Hòang kim Loan và Hòang Lanh để cử hai cơ sở nằm vùng của bọn chúng nắm giữ chức vụ Ủy ban Nhân dân Cách mạng Quận I và II:
1- Nguyễn Hữu Vấn, giáo sư trường Quốc Gia Âm nhạc và Kịch nghệ làm chũ tịch Ủy Ban Nhân dân Cách mạng Quận I
2- Nguyễn Thiết chũ tịch UBCM quận II.
Nguyễn Thiết vuợt tuyến vào Nam nắm 1957. Sau đó học luật. Thành viên trong ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Đại học Huế. Là Can bộ Cộng Sản nằm vùng trong Tổng Hội Sinh viên Đại Học Huế từ lâu.
3- Tại Quận III.
Đại Tá Công An Nguyễn đình Bảy tự Bảy Lanh kiêm nhiện chức vụ chủ Tịch ủy ban Nhân dân Cách mạng Quận III.
4- Chính quyền Ủy Ban Nhân dân Cách mạng tỉnh.
- Chủ tịch ủy ban Nhân dân Cách Mạng Thừa Thiên –Huế : Giáo sư Nhân chủng học thuộc viên Đại Học Huế, Lê văn Hảo.
Lê văn Hảo là một trong những thành phần tranh đấu tích cực của ông Thích Trí Quang vào năm 1966.
Giáo sư Lê văn Hảo là cơ sở Trí vận dứới sự điều khiển của Thành ủy viên Hòang Kim Loan.
- Phó chủ tịch là bà Đào thị Yến tức bà Tuần Chi, nguyên hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh Huế, cũng là cơ sở trí vận dưới quyền điều khiển của Hoang Kim Loan.
- Đồng phó chủ tịch là thường vụ Thành ủy Hòang Phương Thảo.
Liên Minh Các Lực Lượng Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình tại Huế
- Chủ tịch : Giáo sư Lê Văn Hảo.
- Phó chủ tịch: Thích Đôn Hậu.
Thích Đôn Hậu là cơ sở tôn giáo vận của thanh ủy viên Hoang Kim Loan.
Thích Đôn Hậu trù trì chùa Linh Mụ, là Chánh Đại Diện Phật giáo Ấn Quang miền Vạn Hạnh.
- Tổng thư ký: Giáo sư Hoang Phủ Ngọc Tuờng
- Phụ trách học Sinh Sinh Viên, các thành phần trí thức : Nguyễn Đắc Xuân.
Theo đài phát thanh Hà Nội, phát đi bản tin vào ngày mồng 3 Tết, tức là ngày 1tháng 2 năm 1968 thì đây là một lực lượng kết hợp nhân sĩ, trí` thức, học sinh, sinh viên và tôn giáo[Phật Giáo] yêu nước vừa mới thành lập tại Huế nhằm đứng dậy chống đế quốc Mỹ và đám tay sai bọn “ ngụy quân , ngụy quyền”.
Lùng, diệt, truy quét ác ôn, tàn binh “ngụy”, tay sai CIA.
Ngoài ra, thi hành chỉ thị của Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam và Lê Chưởng Chính Ủy mặt trận Huế, Tống Hòang Nguyên
Trưởng ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên, và Đại Tá Công An Nguyễn Đình Bảy trưởng Ban An Ninh Thưa Thiên-Huế đã ra lệnh cho Nguyễn Đắc Xuân thành lập 3 lực luợng để phối hợp hành động với ban An Ninh Khu và Tỉnh, Thị là:
1- Lực Luợng Nghĩa Binh Cảnh Sát.
2- Lực lượng Nghĩa Binh Quân Nhân
3- Các Đội Tự Vệ thành.
- Lực Lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát.
Nguyễn Đắc Xuân giao lực lượng nầy cho Ông Nguyễn văn Cán nguyên Ty CSQG thị xã Huế chỉ huy. Cũng cần phải nói rõ thêm, Nguyên Văn Cán ngạch Quận Trưởng Cảnh Sát VNCH. Là tay chân thân cận của Ông Thích Trí Quang, trong suốt thời gian tranh đấu của Thích Trí Quang và 1966, Quận Cán được bổ nhiệm trưởng Ty CSQG thị xã Huế.
Quận truởng CSQG nguyễn văn Cán cũng là cơ sở Việt Cộng nội thành Trung Tá điệp viên Cộng Sản Hòang Kim Loan là cán bộ diều khiển của Quận Cán. Ngoài ra theo lời khai của Hoàng Kim Loan, chính y và thành ủy viên Hoàng Lanh cũng đã nhiều lần trú ngụ tại nhà Quận Cán.
Lực lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát chỉ là hữu danh vô thực trong suốt thời gian Việt Cộng chiến Huế chẳng quy tụ được nhân viên Cảnh sát nào cả.
- Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân
Nguyễn Đắc Xuân giao cho Đại Úy Nguyễn Văn Lợi Sĩ quan QLVNCH. Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân nầy ngòai Đại Úy Lợi ra còn có được khỏang 10 tên Lao công đào binh gia nhập.
Chúng tôi không có một tin tức nào ghi nhận mọi họat đông của hai lực lương nầy trong thời gian đó.
- Đội tự vệ Thành
Trực tiếp chỉ huy là Nguyễn Đắc Xuân, đoàn viên là những thành phần tranh đấu trong vụ tranh dấu 1966 của ông Thích Trí Quang, một số thóat ly lên mật khu vào thang 6, 7/1966 khi phong trào tranh dấu của ông Thích Trí Quang thất bại, một số bị bắt ở tù ra tái họat động trở lại, số khác là cở sở nằm vùng trong mọi thành phần quần chúng tại Huế như: Giáo sư , học sinh, sinh viên , tiểu thuơng v.v…
Đội tự vệ Thành của Nguyễn Đắc Xuân là lực luợng nguy hiểm nhất, bọn chúng phụ trách chỉ điểm, bắt bớ và hành quyết dân chúng , dân, quan, cán, chính VNCH .
Hầu hết những ngừoi bị bắt, bì hành hình, bị bắn, bị chôn sống trong thành phố suốt 26 ngày đều do Nguyễn Đắc Xuân và lực lượng của y thực hiện theo chỉ thị của đảng CSVN
Tóm lại, Lực lượng Nghĩa Binh Cảnh Sát, Lực Lượng Nghĩa Binh Quân Nhân, Lực Luợng Liên Minh Dân Chũ Dân Tộc Hòa Bình mà Ông Hồ chí Minh và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam trình làng quốc nội và quốc tế trong tết Mậu Thân tại Huế với 2 mục đích rõ rệt:
1- Dùng các lực lương nầy để lôi cuống quần chúng Huế tham gia vào cuộc “Tổng nỗi dậy”. Một hình thức như năm 1966 khi bọn chúng kết hợp với Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu gây ra vụ biến động miền Trung. Còn nhớ bọn chúng và Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân đã thành lập Chiến đòan Quân Nhân Phật Tử Nguyễn Đại Thức, lực lương Cảnh Sát Phật Tử, lực lượng Học Sinh, Sinh Viên Quyết Tử v.v…Tóm lại là bình mới nhưng rượu củ.
2- Ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã tráo trở bỉ ổi đánh lừa dư luận quốc tế:
Đã có cuộc Tổng nỗi dậy tại Huế, dân chúng đã tự động thành lập các lực lượng trên, đã tham gia đông đảo từ quần chúng, trí thức ,sinh viên, đến Quân Đội, Cảnh Sát Quốc Gia, tất cả đồng đứng lên chống Chính phủ trung ương Saigòn, chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nhưng ông Hồ và đảng Cọng Sản Việt Nam đã uớc tính và đánh giá sai lầm nên đã bị thất bại nặng nề trong âm mưu nầy: Dân chúng miền Nam thấy rõ, Quốc tế thấy rõ, Huế chẳng có cuộc Tổng nỗi dậy nào của quần chúng Huế trong Tết Mậu Thân 1968, mà lực lượng Quan Đội Nhân Dân, quân Giải Phóng, của ông Hồ đến vùng nào, chiếm vùng nào thì dân Huế kinh sợ bỏ trốn, rời khỏi vùng đó bằng mọi giá.
Thất bại vì không thể lối cuống dân chúng Huế theo chúng, không thể phát động cuộc Tổng nỗi dậy, Ông Hồ và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định áp dụng “Bạo lực Cách mạng” hay “Bạo lực đỏ” để hăm dọa , trừng trị dân chúng Huế.
Trách nhiện thi hành Bạo lực Cách mạng được giao cho Ban An ninh Quân Khu Trị Thiên, ban An ninh Tỉnh Thị ủy Thừa Thiên-Huế, hai cơ quan an ninh nầy phối hợp chặc chẽ với các Đội Tự Vệ Khu Phố do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, đòan viên của các đội Tự Vệ, những thành phần chủ chốt và sắt máu gồm có:
1- Các cơ sở nằm vùng từ lâu trong quần chúng thuộc các Quận I, II, III trong thành phố Huế.
2- Các thành phần trong Phong Trào Tranh Đấu Phật Giáo năm 1966 của ông Thích Trí Quang đã thoát ly lên mật khu nay trở lại thành phố.
3- Những cơ sở bí mật nội thành như:
- Hòang Phủ Ngọc Tường Giáo Sư Quốc Học
-Hòang Phủ Ngọc Phan, Sinh viên Y Khoa Đại học Huế.
- Nguyễn Đóa, cựu Giám thị trường Quốc Học
- Nguyễn Thị Đoan Trinh [con gái của Nguyên Đóa] Sinh viên Duợc Khoa Đại Học Sàigon.
- Tôn Thất Dương Tiềm, Giáo sư Trường Trung Học Bồ Đề[ Con rễ của Nguyễn Đóa]
- Nguyễn Thúc Tuân nhân viên nhà thuốc Tây Tràng Tiền, Huynh Trưởng Hướng Đạo
- Lê hữu Dũng sinh viên đại học Sàigon, con trai của Lê Hữu Tý cơ sở kinh tài thuộc Thành Ủy Huế.
- Nguyễn Tròn bồi bàn tiệm ăn Quốc Tế tại đường Phan bội Châu, Huế.
- Nguyễn Bé, thợ nề tại Quân II thị xã Huế.
- Tên Gù tại tiệm bán thuốc lá cẩm lệ, Quận II thị xã Huế.
- Tên Trần Văn Linh, tức tên thầy bói toán Diệu Linh thuộc Quân II thị xã Huế.
- Chủ Tiêm thuốc Bắc Thiên Tuờng và hai ngừoi con trai là cán bộ Xây Dưng Nông Thôn.
Và… còn quá nhiều…. mà trí nhớ tôi không đủ sức nhớ hết.
Các Đội Tự Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân duợc rãi đều khắp 3 quận, đặc biệt là Quận I, và Quận II thị xã Huế. Đây là một lực luợng sắt máu và tàn bạo nhất, bọn chúng chính là thủ phạm của những vụ chỉ điềm, bắt bớ, sát hại hằng trăm, hàng ngàn đồng bào vô tội ở Huế.
Những nhân vật chũ chốt trong việc thi hành lệnh “Bạo Lực Cách Mạng hay Bạo Lực Đỏ” gồm:
1- Lê Chưởng Chính Ủy mặt Trận Huế
2- Đại Tá Lê Tư Minh Tư Lệnh mặt trận Huế.
3-Tống Hòang Nguyên: Trưởng Ban An Ninh Quân Khu Trị Thiên
4- Đại Tá Công an VC Nguyễn Đình Bảy tự Bảy Lanh Trưởng ban an ninh tỉnh thị ủy Thừa Thiên –Huê.
5- Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thành ủy viên Thành ủy Huế.
6- Hoang Lanh Thanh Ủy viên thành ủy Huế.
7- Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Tổng thư Ký lực lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Binh.
8- Nguyễn Đắc Xuân, phụ trách học sinh, sinh viên, thành phần trí thức của lực lượng Liên Minh Dân Chũ dân Tộc Hòa Bình.
8- Nguyễn Thiết Chũ tịch Quận II.
9- Nguyễn Hữu Vấn, chũ tịch Quân I.
Kế hoạch được chia làm 3 giai đọan hết sức tinh vi:
Giai đọan I: Đợt trình diện lần thứ I
Đại lực lượng nầy chia thành nhiều toán nhỏ rãi đều trong 3 quân thành phố Huế, bọn chúng đi lục sóat từng nhà , từng gia đình, kêu gọi tàn binh, Ngụy quân, Ngụy quyền, Cảnh sát, Công An Ngụy ra trình diện và giao nạp vũ khí để được khoan hồng.
Ngòai ra trong khi lục sóat từng gia đình bọn chúng đã bắt một số ngừoi mà bọn chúng đã có danh sách từ truớc.
Trong đợt trình diện lần thứ I nầy, đã có mộpt số ít công chức , quân nhân, CSQG trốn tại nhà đã ra trinh diện. Họ được bọn chúng cấp giấy đã trình diện và có quyền đi lại trong khu vực, từng ngừoi một nhận giấy chứng nhận ra về, chẳng gặp trở ngại nào cả.
Giai đoạn II: Đợt trình diện lần thứ II
Lời kêu gọi trình diện và giao nạp vũ khí vẫn tiếp tục, những ngừoi còn trốn chưa ra trinh diện thấy những kẻ đã trình diện đợt I yên hàn vô sựtrở về nhà, lại còn được cấp giấy tự do đi lạin nên họ theo ra trinh diện và họ cũng đã được bọn chúngcấp cho một giấy như vậy và cũng đã được bọn chúng cho tự do yên ổn trở về nhà.
Giai Đọan III: Đợt trình diên lần thứ III
Những ngừoi còn nghi ngở lẫn trốn chưa ra trinh diện hai lần trước, nay thấy hai đợt trình diện vùa rồi mọi ngừoi đều được tư do ra về và con đưộc cấp giấy đi lại trong vùng, vì vậy họ không còn nghi ngờ gì nữa quyết định ra trình diện.
Cũng như hai đợt trước, họ được bọn chúng cấp giấy và tự do ra về…
Thế nhưng, tất cả đã lầm, tất cả đã lọt vào bẫy của bọn chúng …
Chỉ vài ngày sau, lực luơng an ninh, cơ sở nằm đi lục xét từng nhà và yêu cầu những ai đã đi trình diện trong ba đợt vừa rồi phải trình diệntại các địa đểm trong thành phố mà chúng đã ân định để học tập.
Tin tuởng như ba đợt trình diện vùa rồi, đi rồi lại về, mọi ngừoi kéo nhau đi…
Nhưng rồi, vợ con trông đợi, cha mẹ mong chờ. Đêm qua đêm, ngày qua ngà, tháng qua tháng, những ngừoi ra đi sẽ không bao giờ trở lại…Vinh viễn không trở lại, ngàn đời vĩnh biệt…
Tất cả đã chết, Tất cả đã bị chon sống, tất cả đã bị bọn Việt Cộng không dung sung đạn, mà dung vật cứng đánh vào đầu và lấp xuống hầm sâu hố cạn tại một vài nơi trong thành phố Huế và một số lớn tại các quận Huơng Trà, Phú Vang, Phú Thứ, Huơng Thủy, Nam Hòa v.v…
Tất cả nạn nhân Mậu Thân họ đã không may mắn được chết như Trịnh Công Sơn viết trong bài hát phản chiến: “Không hận thù nằm chết như mơ”, mà họ đã chết trong tư thế hai tay bị tróibằng đủ tất cả các loại dây, dây điện thọai, dây kẽm gai, bị nghẹt thở và chết trong nỗi hải hùng, uất hận tột độ.
Tôi chợt nhớ đến hai bài hát Trịnh Công Sơn viết về Mậu Thân, mà từ ngày nó ra đời sau tết Mậu Thân đến bây giờ, tôi vẫn băn khoăn không tài nào hiểu nỗi tại sao nội dung của nó lại có nhiều điều mâu thuẩn như vậy, hay là tôi không đủ thâm thúy để hiểu? Đó là bài “ Hát trên những xác người” và bài” Bài ca dành cho những xác người”..
Trong 2 bài hát nầy, Trinh Công Sơn không hề đá động gì đến thủ phạm đã gây ra cảnh tàn ác nầy, cũng như niềm đau của nó đốii với thân nhân ở lại, và hậu quả của nó đối với đất nuớc, đối với lịch sử.
Từ nhỏ chúng ta đếu được dạy câu” một con ngưa đau, cả tàu không ăn cỏ”, thì Trịnh Công Sơn lại thấy vui hiện tạivà những hứa hẹn trong tương lai qua hai bài hát về Mậu Thân như sau:
“ Mẹ vỗ tay reo mừng xác con”
“Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh”
“Chị vỗ tay hoan hô hòa bình”
Mẹ reo mừng xác con? Thật vậy sao? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!
Là phó Trưởng Ty CSĐB có mặt trong cuộc chiến Mậu Thân1968 và sau đó chỉ huy công tác điều tra tội ác giết ngừoi của Cộng Sản lúc bấy giờ, tôi chỉ thấy toan những ngừoi mẹ già, trẻ, gào thét ngất lịm bên xác con, chồng, thân nhân, trong không gian u ám, chết choc kinh hoàng của Huế, Mậu Thân 1968.
Trịng Công Sơn ông ta đã chứng kiến Cả trời, cả đất cả người xứ Huế sụt sùi trong bi thảm như sau:
“ Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người, tôi đã thấy,trên con đường, người ta bồng bế nhau chạy trốn,..Chiều đi qua Bãi Dâu hát trên những xác người tôi đã thấy những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em”
Và rồi nữa:
“Xác người nằm trôi sông,phơi trên ruộng đồng, trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co…Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh nầy, bên xác người già yếu , có xác còn ngây thơ. Xác nào là em tôi dưới hố hầm nầy, trong những vùng lưa cháy, bên những vồng ngô khoai. Xác người nằm bên nhau, treo trên gầm cầu, trong góc nhà đổ nát, dưới những hào thông sâu. Xác người còn xương khô, trong khắp bụi bờ, sau những hè phố vắng, trên dốc đường mấp mô…”
Trịnh công Sơn đã ghi nhận cảnh tượng Mậu Thân tại Huế một cách chính xác, nhưng cảm xúc của cá nhân ông trước tai họa nầy lại là điều tôi mãi mãi băn khoăn thắc mắc: Những chết chóc gây ra bởi Cộng Sản tại Huế là tiền đề cho mùa xuân? Để nuôi thơm và thêm hơi cho đất? cho mạ tươi reo vui? Theo ông cái chết của đồng bào Huế ngày nào đó là những hy sinh cho mai hậu? cho đường đi tới? cho tương lai? Tương lai nào đây? Tuơng lai sông với Cộng Sản chũ nghĩa, thế giới đại đồng? Hả ông Trịnh Công Sơn?
Không thể chấp nhận rằng cái chết của những ngưởi dân vô tội bởi bàn tay Cộng Sản trong tết Mậu Thân 1968 là những hy sinh để cho đất nước có được tương lai tươi sáng, như nội dung bài hát của ông. Điều nầy cũng chẳng khac nào bọn Cộng Sản nói rằng, những cái chết của những thanh niên miền Bắc theo lệnh Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản vào miền Nam là những hy sinh cho đất nước. Thực chất đó là những cái chết oan khiên, bị lừa bịp, chỉ nhằm đem lại quyền lực cho bọn mưu đồ tội ác, và bán nước.
Trịnh Công Sơn viết:
“Mùa xuân ơi, xác nuôi thơm cho đất ruộng cày, Việt Nam ơi, xac thêm hơi cho đất ngày mai, đường đi tới, dù chông gai đã có người.
Ngày mai đây xác lên cây trên khắp ruộng nầy, ngày mai đây, xác reo vui những khóm mạ tươi, đồng lúa mới, ngừoi ra đi, dựng tương lai, với tay đầy…”
Tôi suy nghĩ mãi ngần ấy năm, vẫn không sao hiểu được. Hàng ngàn cái chết thê thảm như thế lại có thể làm niềm vui và tương lai đất nước? Làm sao có thể cắc nghĩa cho sự tương quan giữa cái chết thê thảm của tổng cộng 5327 nạn nhân và sự hoan tàn của Huế là tiền đề để họ Trịnh phấn khởi mai sau?
Ai có thề luận giải giùm?
Trong cái mớ tư tưởng lập lờ ám muội đó, tôi không rõ ông ta muốn nói ai, phía nào là phía “vỗ tay cho then thù hận”? phía nào là phía “vỗ tay xa dần ăn năn”? phải chăng với ngôn ngữ mập mờ nầy, ông muốn cùng phe với đám cộng sản Bắc Việt và cộng sản nằm vùng, bạn của ông như Nguyễn Đắc Xuân, anh em Hòang Phủ, Ngô Kha v.v… đổ tội cho VNCH chăng ? bởi vì chính cộng sản và đám nằm vùng ở Huế đã tỉnh bơ, bóp méo, cáo buộc vụ tàn sát dã man, tồi tệ nầy cho quân đội VNCH, cho bom đạn của Mỹ Ngụy. Tôi có lời khuyên với bọn cộng sản chính thống và bọn Việt Cộng đầy tớ nằm vùng ở Huế rằng, nếu có điêu ngoa, thì hãy điều ngoa như thế nầy mới là sư tổ: “ Các quân nhân VNCH đã đập đầu chôn sống đồng bào Huế.”
Thực tế, không ai khác hơn là đám VC nằm vùng của Trinh Công Sơn như: An hem Hòang Phủ, Nguyễn Đắc Xuân , Lê Khắc Cầm, Hòang văn Giàu, Tôn Thất dương Tiềm, Nguyễn Đóa, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…là những thủ phạm trực tiếp nhúng tay vào máu đồng bào Huế. Nhưng điều đau long hơn nữa là sau biến cố thê thảm nầy, Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục giao du và nối giáo cho cộng sản.
Trịnh Công Sơn đã thóa mạ đời sống tại miền Nam là nghẹt thở và phi nghĩa, ước ao có ngày thấy được chủ nghĩa cộng sản hòan hảo trên quê hương qua lá thư Trinh gởi cho Ngô Kha, giao cho Nguyễn Khắc Cầm đăng lén trên báo “Đứng Dậy” của cái gọi là “thành phần thứ ba”. Trịnh Công Sơn đã đau dớn thương tiếc tên VC nằm vùng bị mất tích Ngô Kha, nhưng số phận của 5327 thường dân vô tội bị bọn chúng thảm sát và 1200 ngừoi bị bọn chúng bắt đi mất tích trong Mậu Thân 1968 sao không thấy nói đến? Có chăng chi là điều Trịnh Công Sơn nói nguợc:” Mẹ vỗ tay reo mừng xác con”.
Tóm lại, câu hát “ người vỗ tay cho thêm hận thù, người vỗ tay xa dần ăn năn”, có lẽ ông muốn dành cho đối thủ của ông những ngừoi cầm súng chiến đấu chống lại các ông để bảo vệ dân lành, bảo vệ đất nước khỏi thảm họa Cộng Sản, chứ tôi không nghĩ rằng những câu hát đó ông dành cho các đồng chí của ông.
Cũng trong thời gian nầy, tại vùng Bến Ngự, Từ Đàm, Nam Giao, đại đa số dân chúng chạy ra khỏỉ nhà, đều bị Việt Cộng bắn chận đẩy lui, đành trốn tại nhà. Lực lượng an ninh của Tống Hoàng Nguyên, Bảy Lanh và đám cơ sở nằm vùng lục xét từng nhà một, bắt và dẫn đi một số người. Dân chúng đã nhận diện rõ những tên nằm vùng thật nguy hiểm như tên Nguyễn Tú một võ sư mọn phái Thiếu Lâm, nhà ở sát lăng vua Tự Đức, gần đồi Vọng Cảnh.
Tên thứ hai là Cửu Diên và con trai của y là một sĩ quan Thiếu úy QLVNCH đào ngũ theo VC truớc Tết Mậu Thân cả hai cha con tên nầy dều ở trong lực luợng của Bảy Lanh. Trong số những ngừoi bị hai tên Tú và Diên bắt dẫn đi có hai ông là Tôn Thất Hậu, Chũ tiện chụp hình Tự Do tại gần chùa Từ Đàm, và Ông Nguyễn văn Nhẫn chủ tiện hớt tóc cũng ở gần đó, Hai ông Tôn Thất Hậu, và Nguyễn văn Nhẫn là bạn rất thân của tên Cửu Diên và tên Tú vậy mà sau Mậu Thân, thân nhân hai ông nầy đã tìm ra xác của hai ông bị chôn sống tại vùng chùa Từ Hiếu.
- Cũng tại vùng Từ Đàm, Bến Ngự, hai người cháu mội của Cụ Phan Bội Châu là Đại úy Quân Cảnh Tư Pháp Phan Thiện Cầu, và Phan Thiện Tuờng cũng bị bọn chúng chôn sống. Oái ăm thay trong khi đó anh ruột của Đại úy Phan thiện Cầu và Phan Thiện Tường là Đại Tá Việt Cộng Phan Thiện Cơ đang là Tư Lệnh mặt trân ở Tây Nguyên.
Đại Tá VC Phan Thiện Cơ, Ông nghĩ gì khi các đồng chí của ông bắt hai ngừoi em của ông đem đi chôn sống? Hay đó cũng là những thưởng tình trong phong tục tập quán văn hóa của đảng? Ông noi gương của đồng chí Trường Chinh? Dưới ánh sáng soi đường của đảng , thì cha mẹ còn chưa kể , xá gì anh em phải không ông?
Năm 1973 đại tá Phan thiện Cơ là thành viên trong ủy ban kiễn sóat đình chiến tại Tân Sơn Nhất, Saigòn.
- Cũng tại vùng Từ Đàm, Ông Võ Thanh Minh một trong những huynh trưởng Huớng Đạo kỳ cựu, ngừoi mà vào năm 1954 dã dưng lều bên hồ Geneve ngồi thổi sáo phản đối hiệp định chia đôi dất nuớc cũng bị Việt Cộng bắt dẫn đi chôn sống.
- Tại vùng gần chùa Tuờng Vân, Ông Lê Hữu Bôi chũ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, là sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ra ăn Tết ở Huế cũng bị Việt Cộng bắt đi chôn sống vì nghi ông Bôi làm cho CIA.
- Tại vùng Cầu Lòn, Thầy Lê văn Thi nguyên giáo sư Quốc Học, sau đó du học Mỹ, dâu PhD về nguyên tử lực về nuớc phục vụ tại lò nguyên tử Đà Lạt, ra Huế ăn Tết bị VC bắt đi chôn sống vì tội là chuyên viên nguyên tử, khi bọn chúng bắt thầy Thi, phụ thân của thầy can thiệp cũng bị bọn chúng bắt luôn, sau đó gia đình đã tìm ra xác của thầy và ông cụ bị chôn sống gần xã Thủy Xuân.
Tóm lại, tại vùng Bến Ngự, Từ Đam, Trường Cửi, Nam Giao, Thủy Xuân, Lịch Đợi, Cầu Lòn số nạn nhân bị chôn sống khỏang hơn 200 ngừoi.
- Tại nhà thờ Phủ Cam, sau một thời gian vây kín làng Phủ Cam, cuối cùng bọn VC tấn công và xông thẳng vào nhà thờ, bắt đi khoảng 300 thanh niên, dẫn lên giam giữ tại Chùa Từ Đàm. Mãi đến ngày 19 tháng 9 năm 1969 lực luợng hành quân của QLVNCH dã phát giác ra được 428 xác chết tại khe Đá Mài và vùng lân cận, trong đó, sau khi xác nhận, chứng thật có 300 xác của 300 thanh niên Phủ Cam đã bị VC bắt và dẫn đi.
- Tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, gần khu An Cựu thuộc Quân III thị xã Huế có khỏang trên 500 đồng bào đang lánh nạn tại đó. Các đơn vị an ninh của đại tá Công An Bảy Lanh, các cở sở nằm vùng nhu cha con ông Thiên Tuờng, đoàn viên tự vệ khu phố của Nguyễn Đác Xuân tràn vào khu nhà thờ thanh lọc đồng bào, bắt và dẫn đi khỏang 300 ngừoi, trong đó có Thượng Nghị sĩ Trần Điền.
300 ngừoi bị bắt nầy đã không bao giờ trở về với gia đình tất cả đã bị chon sống tại vùng Lăng Xã Bàu, Lăng Xá Cồn thuộc quận Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên, trong đó có Thượng Nghị Sĩ Trần Điền.
- Trường trung học Thiên Hựu là nơi VC đặc bộ chỉ hụy nhẹ của Mặt trận cánh Nam do Đại Tá VC Thân Trọng Một chỉ huy, nơi đây cũng là chỗ Đại Tá Công An Việt Cộng dùng làm nơi giam giữ những nhân vật cao cấp hành chánh, quân sự của chính phủ VNCH mà bọn chúng bắt được. Điển Hình là Ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên bị gian giữ tại đây trước khi đưa ra Bắc.
Tại Quận II trong những ngày đầu của “bạo lực cách mạng” khởi đi từ ngày mồng ba Tết, nhằm ngày 2 tháng 1 năm 1968, một số viên chức Quân, Cán, Chính của chính phủ VNCH đã bị các Đội Tự Vệ khu phố cuỉa Nguyễn Đắc Xuân và tên thợ nề Nguyễn Bé Chũ tịch khu phố Chính quyền Cách mạng mới thành lập lùng bắt tại nhà, họ bị bọn chúng hành hạ đanh đập và cuối cùng bị xử bắn. Danh sách quá dài, nếu viết ra cũng vài trăm ngừoi, chỉ xin nêu một vài trường hợp điển hình như:
- Thiếu tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh đòan Trưởng Xây Dựng Nông Thôn.
- Ông Trần văn Cư, Phó giám Đốc Nha CSQG Vùng I
- Ông Lê văn Phú Quận Trưởng Quận II.
- Ông Trần văn Nớp, nguyên trưởng ban Nhân viên Bộ Chỉ Huy CSQG/Thưa Thiên-Huế.
- Chồng bà chủ quán bún bò Mụ Rớt
- 13 nhân viên Cảnh Sát bị bắt tại nhà thuộc khu vực Quận II, tất cả đều bị xử bắn.
Bà Lê Thị Trâm ở đường Mạc Đỉnh Chi bị ngừoi tớ gái là đòan viên trong đội tự vệ của Nguyễn Đắc Xuân bắn ngay tại nhà vì tư thù.
Cũng cần nhắc lại ba vụ giết ngừoi tàn bạo và tán tận lương tâm nhất do Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Duơng Tiềm, Hòang văn Giàu thực hiện tại quận I, và Vụ Tòa án Nhân Dân tại truờng Gia Hội thuộc Quận II do Hoang Phủ Ngọc Tuờng ngồi ghế chủ tịch phiên tòa, và bốn bác sĩ người Đức Giáo sư Trương Đại học Y Khoa Hế bị sinh viên Y khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan bắt và sau đó bị bọn chúng chôn sống gần chùa Tường Vân .
1- Nguyễn Đắc Xuân xử bắn Trần Mậu Tý.
Rạng sáng ngày mồng hai Tết, tại khu vực của Đông Ba thuộc Quân I thị xã Huế, đôi An Ninh và tự Vê của Nguyễn Đắc Xuân đã dẫn 6 nạn nhân ra đứng sắp hang ngang úp mặt vào tường tại thượng thành ngay cửa Đông Ba. Nhiều nhân chúng đã kể lại rằng họ nhận diện được 2 nạn nhân trong 6 ngừoi nầy là:
- Ông chồng bà Nội thuơng gia, chũ tiệm xe đạp tại gần cuối đường Phan Bội Châu.
- Sinh viên Trần Mậu Tý.
Nhiều nhân chúng cũng đã nhận diện được ngoài tiểu đội VC có mặt tại hiện trường còn có Nguyễn Đắc Xuân, Giáo sư Tôn Thất Duơng Tiềm, Giáo sư Hoàng Văn Giàu.
Chính Nguyễn Đắc Xuân đã đích thân xử bắn Trần Mậu Tý, và giáo sư Tôn Thất Dương Tiền ra lệnh cho Tiểu đội VC xử bắn 5 nạn nhân kia.
Vậy Trần Mậu Tý là ai mà Nguyễn Đắc Xuân Đích thân xử bắn?
Trần Mậu Tý là nhân viên tình báo của Ty CSQG/Thừa Thiên-Huế. Họat động trong lòng địch. Anh cũng là đảng viên đảng Đại Việt.
Trong suốt thời gian cuộc tranh đấu 1966, Trần Mậu Tý còn là sinh viên Đại học Huế, và khi Nguyễn Đắc Xuân theo lệnh Trí Quang và Trung Tá VC Hòang Kim Loan thành lập 3 đại Đội Sinh Viên Quyết Tử thì Trần Mậu Tý là một trong 3 đại đội Trưởng đại đội Quyết Tử. Trần Mậu Tý và Nguyễn Đắc Xuân là đôi bạn thân. Trần Mậu Tý cũng đã từng giúp Nguyễn đắc Xuân thóat hiểm, khỏi bị chúng tôi bắt khi Nguyễn Đắc Xuân đang trốn tại chùa Tường Vân đợi giao liên VC đưa lên mật Khu vào tháng 7/1966.
Có lẽ sau nầy Trần Mậu Tý vì bất cẩn đã để lộ là nhân viên tình báo và ngoài ra cũng có thể lộ là đảng viên đảng Đại Việt, nên khi đột nhâp vào thành phố Nguyễn Đắc Xuân quyết tìm bắt cho được Trần Mậu Tý và thẳng tay bóp cò súng Ak 47 vào ngừoi Trần Mậu Tý. Trần Mậu Tý đã nhận lãnh cái chết thê thảm từ chính ngừoi bạn thân Nguyễn Đắc Xuân, ngừoi mà Tý đã mặng tình cảm giúp bạn thóat thân, nay trở về giết Tý. Câu nói “ Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhơn, nhơn trả oán” quả không sai khi áp dụng cho bọn cộng sản.
Một nén hương lòng cho chiến hữu Trần Mậu Tý , một nhân viên tình báo của ty CSQG/Thừa Thiên Huế đã bỏ mình vì tận tụy với chính nghĩa quốc gia, với đồng bào và xứ Huế.
Xin được vinh danh anh, cho dù đã quá trể. Bốn mươi hai năm rồi Tý!
2- Giáo Sư Hoàng Phủ Ngọc Tường Chủ Tịch Tòa Án Nhân dân tại truờng Gia Hội Quận II thị xã Huế
Trong những ngày đầu chiếm Huế, Tống Hòang Nguyên trưởng Ban An Ninh Khu ủy Trị Thiên, cùng hai thành ủy viên Thành ủy Huế là Hòang Kim Loan, Hòang Lanh thiết lập Tòa Án Nhân Dân đầu tiên tại trường học Gia Hội thuộc Quận II thị xã Huế.
Ông Quan Tòa là Giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, hiện diện có Nguyễn Đắc Xuân Trưởng Đòan An Ninh Bảo Vệ Khu Phố, Hòang Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Thiết chũ tịch Ủy Ban Nhân Dân Quận II, Nguyễn Bé Chủ Tịch khu phố, và đằng sau là Hoàng Lanh và Hoàng Kim Loan tham dự.
Nạn nhân thuộc thành phần Công chức, Quân Nhân, Cảnh Sát, trốn tại nhà, bị bắt. Những người nầy bị ông tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường xếp họ vào lọai ác ôn.
Một số khác là cô nhi quả phụ, vợ con của anh em quân nhân, Cảnh sát, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, cán bộ Xây dựng Nông Thôn đã tử trận. Tất cả những ngừoi nghèo khổ nầy, đi làm tạp dịch như dọn dẹp phòng ngủ, giặt quần áo v.v…cho lính Mỹ tại căn cứ Dạ Lê, Phú Bài hoặc ở cơ quan MAC-V kiềm sống, nuôi con nuôi cháu, số ngừoi nầy được ông tòa Hòang Phủ Ngọc Tường xếp vào lọai làm việc chi tình báo Mỹ, CIA.
Với những tội danh nêu trên, tất cả phải bị nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế và Chính quyền Cách mạng trừng phạt đích đáng để làm gương bằng bản án tử hình …
Kết quả có 204 nạn nhân lãnh bản án tử hình, và tất cả bị chôn sống ngay tại chỗ, trong khuôn viên truờng Gia Hội.
Tháng 5/1972 khi bắt được Trung Tá VC Hòang Kim Loan đích thân tôi thẩm vấn y và hỏi rất kỷ về tòa an Nhân Dân tại truờng Gia Hội Quân II thị Xã Huế, thì Trung Tá VC Hòang Kim Loan khai như sau:
“Tống Hoàng Nguyên , Hoàng Lanh và tôi hội ý với nhau. Lúc đầu có ý đinh đưa Nguyễn Đắc Xuân, nhưng sau đó chúng tôi chọn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi lẽ vào thời điểnm đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đang giữ chức Tổng Thư Ký Lực Lượng Liên Minh, Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Đây là một lực lượng kết hợp các thành phần trí thức, tôn giáo, những lực lượng và cá nhân nhũng nhân vật có uy tín tại Huế đứng lên chống Thiệu Kỳ, chống Mỹ. Vậy tòa án Nhân Dân giao cho Tổng thư ký của lực lượng nầy đại diện dân chúng Huế ngồi xử các tên ác ôn, các tên tay sai của Thiệu-Kỳ và của Mỹ là thích hợp và thuận lòng dân.”
3- Hòang Phủ Ngọc Phan bắt và sát hại bốn giáo sư Y khoa ngừoi Đức thầy của Phan, và bắn chết 3 ngừoi bạn sinh viên y khoa.
Theo chương trình trợ giúp của chính Phủ Cộng Hòa Liên Ban Đức với truờng Đại Học Y Khoa Huế, bốn vị bác sĩ ngừoi Đức có tên là:
Bác Sĩ Raimund Discher.
Bác Sĩ Hort Gunther Kranick và vợ
Bác sĩ Slois Alterkoster.
Họ đến Huế giảng dậy tại trường Đại Học Y khoa Huế, đông thới còn làm việc tại Bệnh Viên Trung ương Huế, họ là ân nhân của hằng ngàn bênh nhân ngừoi Huế. Vậy mà những ngày đầu chiếm Huế, nhiều nhân chứng đã thấy rõ Hòang Phủ Ngọc Phan đi cùng toán An Ninh Thành đến vây bắt 4 vị thầy của mình, và sau đó tham dự vào cuộc chôn sống bốn vị bác sĩ nầy tại vùng gần chùa Tường Vân.
Ngoài ra khi chiếm và lục sóat, đập phá một số phòng ốc và dụng cụ của truờng Đại Học Y khoa, Hòang Phủ Ngọc Phan dã bắt gặp một ngừoi bạn học của y đang lẫn trốn với ngừoi em gái trong đó, Phan dem ngừoi bạn nầy ra bắn ngay truớc sự chứng kiến kinh hòan của ngừoi em gái. Hoang Phủ Ngọc Phan bắn Sinh viên nầy vì tình nghi anh ta làm cho tình báo CIA. Sau đó Hoàng phủ Ngọc Phan bắt cô gái dẫn về nhà của cô ta để tìm kiếm thêm hai ngừoi anh của cô ta ở đường Hàm Nghi thuộc quận III thị xã Huế.
Khi Hòang Phủ Ngọc Phan và toan VC An Ninh Thành ập vào nhà của cô ta, hai ngừơi anh của cô ta đang trốn trên gát. Những lọat đạn AK 47 của đám An ninh VC và của Hòang Phủ Ngọc Phan đã đốn ngã hai thân xác từ trên gát rơi xuống nền nhà. Mọi ngừoi trong gia đình kinh hòang la hét…Ông Cụ nội của cô ta đã uầt hận mất bình tỉnh chửoi Hoang Phủ Ngọc Phan nặng lời, nên đã bị Phan bắn một lọat AK vào ngừoi, ông Cụ ngã xuống chết tại chỗ. Cô gái đó nay là một thiếu phụ và cách đây gần một năm đã kể lại với tôi câu chuyện dau thuơng nầy bằng một giọng nói đầy đau buồn:
“ Ông biết không…chứng kiến cảnh ba ngừoi anh ruột và ông nội bị bắm chết truớc mắt mình, tôi xin lỗi ông dã phải nói như thế nầy: Khi đó tôi quá sợ đã đi tiểu và đi tiêu trong quân hồi nào mà không hay.
Mẹ tôi đã diên lọan , mất trí gần một năm sau đó, tôi cũng vậy”.Thiếu phụ đó đã viết bản trường thuật đầy đử sự việc trên cho tôi, và bà ta bằng lòng đứng ra tố giác và làm nhân chứng vụ nầy một khi vụ nầy được đưa ra truớc Tòa An Hình Sự Quốc Tế.
Vì lý do an ninh của bà ta và gia đình, tôi tkhông thể tiết lộ danh tánh và nơi cụ ngụ của bà ta, chỉ có thể nói rằng, bà ta hiện đang định cư tại Hoa kỳ và sẵn sảng phối họp với chúng ta đứng ra truy tố tên sát nhân Hòang Phủ Ngọc Phan ra Tòa án Hình Sự Quốc Tế về tội dịêt chủng.
Tóm lại Ông Hồ Chí Minh, Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam và những kẻ nội thù, những tên VC nằm vùng, đã là những tên đồ tể, những kẻ giết hại dân Huế không nương tay trong những ngày đầu xuân Mậu Thân 1968 tại Huế.
Huế trong 624 giờ kinh hoàng, Huế trong địa ngục có thật, địa ngục trần gian.
Huế trong 624 giờ đã có 5327 thường dân vô tội bị Việt Cộng sát hại và 1200 người bị bọn chúng bắt đi mất tích. Đây là một cuộc tàn sát đồng lọai dã man tàn bạo chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
Ngoài số 5327 thường dân vô tội Huế bị sát hại, con có một số viên chức quân, cán, chính, các vị tu sĩ và một số nhân viên ngọai quốc đã bị VC sát hại được liệt kê như sau:
1- Ô. Trần Đình Thương Phó thị Trưởng thị xã Huế bị bắn ngy truớc tư gia.
2- Thượng Nghị Sĩ Trần Điền bị bắt tại dong Chúa Cứu Thế, sau nầy tin rat hi hài tai Lăng Xá Bàu.
3- Ô. Bửu Lộc bị bắt và dẫn ra Bắc
4- THiếu tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoan Trưởng Tỉnh Đoan Xây Dưng Nông Thôn bị bắn chết tại tư gia.
5- Nguyễn văn Cư, Phó Giam Dốc CSQG/VungI bị bắn chết tại tư gia
6- Lê văn Phú, Quân Truởng Quân II bị bắn chết tai tư gia.
7- Trân văn Nớp , trưởng ban Nhân Viên BCH/CSQG/THưa Thiên-Huế, bị bắn chết gần tư gia.
8- Ong Nguyễn Văn Đãi, Phụ tá Đại Biểu Chính phủ, bị bắt đưa ra Bắc.
9- Ông Nguyễn Khoa Hòang, chánh án Tòa Thượng Thẩm Huếcùng ngừoi con trai bị bắn chết tại tư gia.
10-Thiếu tá Bửu Thạnh, Ủy viên tòa án Quân Sự mặt trậnbị bắt và bị bắn chế
11- Chuyên viên nguyên tử lực giáo Sư Lê văn Thi và phụ thân bị bắt và bị chon sống gần xã Thủy Xụân.
12- Bốn vị giáo sư đai học Y Khoa ngừoi Đức Tình nguyện giảng dạy tại truờng Đại Học Y khoa Huế bị bắt và bị chon sống:
Bác Sĩ Raimund Discher
Bac Sĩ Hort Gunther Kranickvà bà vợ
Bác Sĩ Slois Alterkoster
Ngoài việc giảng dạy tại Đại Học Y Khoa HUế, b1n vị bác sĩ nầy đã làm việc tại Bệnh viện Trung Ưởng Huế, cứ song rất nhiều bênh nhân.
13- Linh Mục Dom Roman Guillaurn bị bắn chế ngay tại dòng tu Thiên An.
14- Linh mục Urban và Gay thuộc Dòng tu Thiên An cũng bị bọn chúng bắt đi, sau đó tìm được xac của họ gần lăng Vua Đồng Khánh.
15- Linh mục Bửu Đồng bị bắt và sau đó tim được xác tại Phú Xuân.
Căn cứ theo bá cáo cửa lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thùa Thiên và thị xã Huế có khỏang 19 địa điểm có mồ chôn tập thể ở một số quận tại tỉnh Thưa Thiên và 3 quận ở thanh phố Huế được liệt kê như sau:
1- Quận I:
Mồ chôn tập thể gần cửa Đông Ba.
2- QuậnII:
Trường học Gia Hội, Bãi Dâu, chùa Áo Vàng tức Tăng Quang Tự.
3- Quận III:
Sau lưng Tiểu Chủng viện
.
4- Quận Hương Thủy:
Cồn Hến, Lăng Xá Bàu, Xăng Xá Cồn, Nam giao, gần Chùa Tường Vân, cạnh lăng vua Tự Đức, lăng vua Đồng Khánh, cạnh lăng Đông Cung Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh, Chùa Từ Hiếu, Nhà máy nuớc Vạn Niên, đồi Quãng Tế, khu vực dong tu Thiên An, Lăng Vua Khải Định, Làng Châu Chữ
.
5- Quân Hương Trà:
Cầu An Ninh, trường tiểu học An Ninh Hạ, chợ Thông, trường Văn Chí.
6- Quân Phú Vang.
Vùng Tiên Nộn
7- Quận Phú Thứ:
Vùng Đồng Di, Tây Hồ.
8- Quận Nam Hòa :
Vùng Định Môn, Lăng Vua Gia Long, Khe Lụ, Khe Đá Mài.
Mỗi mồ chôn tập thể ít thì năm, mừoi, thi hài, nhiều thì vài trăm thi hài.
Có thể nói:
- Huế trứơc Mậu Thân 1968.
Dân chúng sửa sọan đón xuân trong niềm hân hoang của những ngày thành bình hưu chiến.
- Huế trong những ngày Tết Mậu Thân 1968
Dân chúng đón xuân trong kinh hoàng, trong máu và nuớc mắt, trong thây ngừoi và xác chết.
- Huế sau 26 ngày Tết Mậu Thân 1968
Dân chúnh Huế đón xuân trong hoang tàn, đỡ nát, trong tang tóc ngậm ngùi, trong chờ dợi mòn mõi ngừoi thân, những ngừoi dã bị VC bắt dẫn đi chưa trở về.
Nhưng rồi ngày tháng qua, họ chợt hiểu những ngừoi thân yêu của họ đã bị VC bắt đi sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại, vì tất cả đã bị giết bằng cách chôn sống, bằng mã tấu, bằng vật cứng đập vào đầu và thân xác ngừoi thân bị vùi lấp dứoi hầm sâu, hố cạn, đó đây trên dồi núi vùng đất Thừa Thiên-Huế.
- Huế sau Mậu Thân 1968.
Huế với hằng ngàn cổ quan tài, với khăn tang áo chế đầy đường, dầy phố, Huế phủ kím một màu trắng tang tóc, một giải khăn tang trắng kéo dài từ thành phố lên tân Ba Đồn nơi an nghỉ tập thể của hằng ngàn dân lành vô tội.
Đã bốn mưoi mốt năm trôi qua, đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn lặng thinh, giấu nhẹm vụ tàn sát diệt chủng nầy. Những tội đồ, những tay sát thủ, những quỹ dữ nhúng tay vào máu dân lành vô tội tai Huế váo Mậu Thân 1968 vẫn trơ tráo chối tội sát nhân.

Không có nhận xét nào: