Trong khi bản tin ABC của Úc viết về Đơn Vị 547 Signal Troop, một đơn vị bí mật
của quân đội Úc tại VN chuyên nghe lén băng tần truyền tin của CSVN, hiện đang
chờ lãnh huy chương... bản tin BBC tóm lược một bài trên báo Wall Street Journal
giới thiệu cuốn sách “Black April” của nhà nghiên cứu George Veith trong đó cho
thấy quân đội VNCH đã chiến đấu rất mực hào hùng bất kể các phương tiện chiến
đấu đã bị quốc hội Mỹ cắt bỏ trong các năm cuối Cuộc Chiến VN.
Bản tin ABC từ Úc nói rằng đơn vị nghe lén 547 Signal
Troop trong lực lượng chiến binh Úc Châu đóng ở Nuí Đất, và trên phi cơ nhẹ thì
bay với thiết bị nghe lén tinh vi... là một công tác tối mật, đã cứu nhiều sinh
mạng lính Úc, và ngay bây giờ cũng còn trong hồ sơ tối mật. Lúc đó, truyền tin
qua sóng là chữ Morse được mã hóa.
Dù vậy, ABC nói nhiều phần công tác
nghe lén naỳ đã giải mật, thiết bị nghe lén đang được Úc trưng bày ở nhiều nơi,
kể cả Đài Tưởng Niệm chiến Tranh, “và cả ở các bảo tàng tại Mỹ,” theo lời Thiếu
Tá Peter Murray, người từng chỉ huy đơn vị bí mật này.
Trong suốt thời
Chiến Tranh VN, có khoảng 200 tới 300 lính Úc trong đơn vị này, và bây giờ đang
chờ xét lãnh huy chương.
Trong khi đó, cuốn sách “Black April” của George
Veith, dày 587 trang, của nhà xuất bản Encounter, được nhà phê bình Mark Moyar
giới thiệu trên báo Wall Street Journal, nói rằng truyền thông thiên tả Mỹ đã
không chịu nhìn thấy rằng quân đội VNCH đã chiến đấu rất anh hùng, ngay cả sau
khi quân đội Mỹ đã rút đi và việnt rợ bị cắt bỏ.
Trong khi báo WSJ đặt
tựa đề bài viết là “Abandoning Vietnam” (Bỏ Rơi VN), BBC dịch thẳng ra tiếng
Việt theo tựa đề sách là “Tháng Tư Đen.”
Bài viết BBC lươc5 theo WSJ sẽ
trích đoạn như sau:
“...Mang tên 'Tháng Tư Đen', sách dày gần 600 trang
của tác giả George Veith vẽ lại bức tranh hãi hùng của những trận chiến cuối
cùng với sự thiệt mạng của 100.000 lính Nam Việt Nam.
Bản thân Hà Nội ước
tính họ mất 6.000 bộ đội chỉ trong vài ngày cuối tháng Tư năm 1975, theo điểm
sách 'Tháng Tư Đen' trên báo Wall Street Journal của chuyên gia tư vấn quốc
phòng Mark Moyar, người cũng là tác giả cuốn 'Thắng lợi Bỏ lỡ: Cuộc chiến Việt
Nam, 1954-1965'.
Moyar đánh giá 'Tháng Tư Đen' đã xuất sắc "điền vào
khoảng trống lịch sử" của giai đoạn 1973-1975 khi Hoa Kỳ đã rút quân và Cuộc
chiến Việt Nam không còn là mối quan tâm hàng đầu của các phóng viên Hoa Kỳ,
khiến các tài liệu tham chiếu bằng tiếng Anh để viết về giai đoạn này không có
nhiều.
Tác giả Veith đã dùng tới các sử liệu từ phía Việt Nam bao gồm của
cả miền Bắc và các cuộc phỏng vấn của ông với các tướng lĩnh Nam Việt Nam trong
quá trình nghiên cứu để viết sách.
Ông Veith nhận xét thất bại trong
tháng Tư năm 1975 không phải do sự lúng túng của chính quyền miền Nam và càng
không phải do sự yếu kém trên chiến trường của lực lượng Việt Nam Cộng
hòa.
Theo ông, lực lượng Nam Việt Nam bao gồm nhiều chỉ huy từng đẩy lùi
cuộc tấn công của miền Bắc hồi năm 1972 và đã có những trận đánh thành công
nhưng ít được biết tới trong giai đoạn 1973-1975.
Một số trận đánh trong
đó quân miền Nam kháng cự kiên cường được nhắc tới xảy ra trong tháng Ba và
tháng Tư năm 1975 như các trận Mỏ Tàu và Núi Bồng ở mạn bắc, Bến Cầu và Chơn
Thành ở miền trung cũng như trận Cần Thơ và Long An ở miền nam.
'Giết hại
dân thường'
Theo bài điểm sách của chuyên gia Moyar, "[Ông] Veith đã minh
chứng thuyết phục rằng lý do gốc rễ của sự thất bại ở miền Nam là việc cắt giảm
trợ giúp của Quốc hội Hoa Kỳ trong năm 1974 khi viện trợ quân sự giảm gần một
nửa.
"Khi cuộc tấn công của quân Bắc Việt bắt đầu trong tháng Ba năm
1975, sự thiếu hụt nhiên liệu máy bay và phụ tùng không cho phép quân đội chở
lính tiếp viện bằng đường không nhằm củng cố biên giới miền tây trải dài 900 dặm
(gần 1.500km).
"Bởi vậy Bắc Việt được tự do để tập trung các cuộc tấn
công với số quân lớn vào các thành phố và thị trấn trọng yếu.
Ông Veith
nói sự thiếu hụt không quân cũng làm cho miền Nam không thể cho máy bay ném bom
lực lượng miền Bắc ngay cả khi họ biết những nơi đối thủ tập trung đông
quân.
Ngoài ra việc dân thường di tản với số lượng lớn cũng ảnh hưởng đến
khả năng triển khai và di chuyển quân của Nam Việt Nam.
Ông Veith nói
việc Bắc Việt Nam giết hại những người không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc
lộ 1 năm 1972 khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường khi quân
miền Nam rút đi.
Việc tắc nghẽn đường và cầu khi dân thường di tản làm
cho một số đơn vị chiến đấu của VNCH không rút kịp và bị lực lượng miền Bắc tiêu
diệt...”
Điểm đặc biệt trong bài báo WSJ được BBC dịch là tuyến phòng thủ
cuối cùng ở Sài Gòn, “...Nam Việt Nam có tới hơn 760.000 binh sĩ nhưng chỉ tập
hợp được 110.000 ở Sài Gòn trong trận đánh cuối cùng.”
Bài báo WSJ ghi
rằng lúc đó quân Bắc Việt đã mang 350,000 chiến binh vào và được viện trợ đầy đủ
nhờ chuyển Đường Mòn Hồ Chí Minh thành xa lộ và gắn ống dẫn dầu dọc theo đường
này.
BBC kể lại:
“Trong phần kết thúc bài điểm cuốn 'Tháng Tư
Đen', chuyên gia quốc phòng Moyar nói cuốn sách là lời nhắc nhở Hoa Kỳ về cái
giá phải trả bằng nhân mạng khi rời bỏ một đồng minh.
Ông nói 100.000
lính Nam Việt Nam, những người từng sát cánh với Hoa Kỳ trong các trận đánh cuối
cùng, đã bỏ mạng, bị hành quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các trại
"cải tạo" khổng lồ.
Hơn nửa triệu người Nam Việt Nam cũng bỏ mạng trên
biển khi bỏ trốn chế độ cộng sản.”
Bài trên WSJ nói, quân Bắc Việt trong
những ngày cuối Tháng Tư Đen đã bị giết 6,000 bộ đội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét