Hôm thứ Ba tuần này, giữa lúc Việt Nam và Hoa Kỳ chuẩn bị cho cuộc đối thoại về vấn đề nhân quyền ở Washington, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế (USCIRF) của Hoa Kỳ khuyến cáo đã đến lúc Washington nên tăng áp lực để Việt Nam hành động hầu đạt được những tiến bộ cụ thể để cải thiện thành tích nhân quyền mà theo Ủy ban, đã trở nên đáng quan tâm hơn từ ngày Việt Nam được rút tên khỏi danh sách CPC. Ủy ban Tự Do Tôn giáo Quốc Tế là một ủy ban độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập để theo dõi tình hình tự do tôn giáo trên thế giới, ủy ban này có nhiệm vụ đề nghị nên đưa nước nào vào danh sách các nước đáng quan tâm về nhân quyền, gọi tắt là CPC. Tiến sĩ Scott Flipse, phó Giám Đốc USCIRF đã dành cho Ban Việt Ngữ Đài VOA một cuộc phỏng vấn, một ngày trước khi cuộc đối thoại Mỹ-Việt bắt đầu. Mời quý vị theo dõi chi tiết trong Câu Chuyện Việt Nam do Hoài Hương phụ trách sau đây.
Hoài Hương | Washington DC
Hình: uscirf.gov. Phúc trình thường niên 2011 của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF)
Dẫn đầu phái đoàn Hoa Kỳ trong cuộc Đối thoại Nhân quyền Mỹ-Việt là Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách nhân quyền, dân chủ và lao động Michael Posner, và trưởng phái đoàn Việt Nam, Vụ trưởng Hoàng Chí Trung. Đây là vòng thảo luận thứ 16 trong cuộc đối thoại song phương, mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mô tả trong một thông cáo báo chí hôm 7 tháng 11, là “dựa trên các nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau… nhằm thu hẹp những khác biệt giữa hai bên trong lĩnh vực nhân quyền.”
Tiến sĩ Scott Flipse là một chuyên gia về Việt Nam và là Phó Giám đốc Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ, ông từng nhiều lần tới thăm Việt Nam và đã gặp một số nhân vật bất đồng chính kiến trong các nhà tù, kể cả Linh mục Nguyễn văn Lý và các luật sư Nguyễn văn Đài và Lê thị Công Nhân.
Bất chấp những quan hệ nồng ấm hơn về nhiều phương diện, kể cả kinh tế, thương mại và quân sự, nhân quyền vẫn là lĩnh vực mà Việt Nam và Hoa Kỳ có nhiều khác biệt quan điểm nhất. Trong phúc trình nhân quyền thường niên công bố hồi tháng Tư năm nay, Bộ Ngoại giao Mỹ lưu ý rằng trong năm 2010, nhà nước Việt Nam đã “tăng các biện pháp hạn chế các quyền riêng tư của công dân, và các quyền tự do báo chí, ngôn luận, tụ tập, đi lại và lập hội”.
Hồi tháng 9, hơn 10 nhà lập pháp Mỹ đã gửi thư kêu gọi tân đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam hãy nêu bật các quan tâm về vấn đề pháp quyền, tự do Internet, và chiến dịch đàn áp giới bất đồng chính kiến tại nước cộng sản Việt Nam.
Tiến sĩ Scott Flipse, phó Giám đốc USCIRF, nhận định về cuộc đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt: “Tôi tin rằng việc hai nước nói chuyện với nhau rất là quan trọng, nhưng Việt Nam cần nghe rằng các quan hệ tốt đẹp sẽ tùy thuộc vào những cải thiện đạt được trong lĩnh vực nhân quyền. Đó là điều rất quan trọng cho phía Hoa Kỳ, và đó là thông điệp chúng ta nên gửi tới Việt Nam một cách rõ ràng.”
Tiến sĩ Scott Flipse cho biết ông đã đề cập tới vấn đề nhân quyền tại Việt Nam trong cuộc tiếp xúc với Trợ lý Ngoại Trưởng Michael Posner.
Ông nói: “Tôi nói với ông rằng ở Việt Nam có quá nhiều người tù tội, nhiều người bị giam vì các hoạt động tôn giáo, và vẫn có nhiều người bị ép buộc từ bỏ niềm tin tín ngưỡng, có những du đãng đến đánh đập, bắt bớ giáo dân Ky tô tham gia các buổi cầu kinh ban đêm. Có nhiều Phật tử, kể cả những người theo phái Làng Mai, bị chính quyền dùng bạo lực cấm hoạt động, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thì không được công khai hoạt động hợp pháp. Đó là chưa kể các chiến dịch đàn áp tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài… Rất nhiều điều tôi muốn ông Posner nêu lên với phía Việt Nam.”
Được hỏi về phản ứng của Trợ lý Ngoại Trưởng Posner về yêu cầu đó, Tiến sĩ Scott Flipse cho biết: “Ông ấy nói tự do tôn giáo là một phần quan trọng trong cuộc đối thoại song phương. Tôi không nghi ngờ gì điều đó, nhưng vấn đề là nếu các cuộc thảo luận ấy diễn ra mà hai bên không tìm cách đạt các mục tiêu cụ thể và khả thi, những cải thiện cụ thể, thì sẽ có tác động ngược, chúng chỉ là những lời nói xuông.”
Tiến sĩ Scott Flipse nói cách duy nhất để buộc Việt Nam phải chú ý là liên kết nhân quyền với toàn bộ cấu trúc các quan hệ Mỹ-Việt, từ Tòa Bạch Ốc, tới các cuộc thương thuyết thương mại, và các phái đoàn quân sự vv.
Ông nói: “Người Việt Nam cần nghe chúng ta khẳng định nhân quyền là một vấn đề quan trọng và không thể xúc tiến quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ, nếu không có những cải thiện cụ thể về nhân quyền. ”
Trong một phúc trình công bố hồi tháng Ba năm nay, Tổ chức Ký giả Không biên giới xếp hạng Việt Nam thứ 165 trong tổng cộng 178 nước về chỉ số tự do báo chí, và mô tả Việt Nam là “kẻ thù của Internet”. Tiến sĩ Scott Flipse cho biết ý kiến của ông về vấn đề này: “Tự do Internet là một vấn đề thiết yếu, không nên coi tự do internet là chỉ liên quan tới nhân quyền, nó còn là một vấn đề thương mại, Việt Nam nên nghe không những ông Posner nói tới tự do internet, mà cả Bộ trưởng Thương Mại và các phái đoàn thương mại Mỹ đi thăm Việt Nam cũng nên nêu lên vấn đề này.”
Tiến sĩ Scott Flipse nhắc tới một số tù nhân lương tâm ở Việt Nam, đặc biệt là Linh mục Nguyễn văn Lý, hiện đã bị đưa trở lại vào tù. Ông nói: “Tôi đã gặp Linh mục Lý 2 lần trong tù trong các chuyến đi thăm Việt Nam. Tôi biết Cha Lý là một người can đảm. Tôi biết Cha Lý tranh đấu ôn hòa cho tự do, và sự kiện Cha Lý vẫn tiếp tục bị cầm tù là một vết nhơ trong các quan hệ Việt-Mỹ.”
Tiến sĩ Scott Flipse nói ông hy vọng Linh mục Nguyễn văn Lý sẽ được trả tự do lập tức, một điều mà ông cho là rất có thể xảy ra sau vòng đối thoại nhân quyền lần này, nhưng ông nói ngoài Cha Lý, còn có nhiều trường hợp khác, những tín hữu đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Ky tô giáo, Tin Lành khác đang bị cầm tù, cùng với các nhà hoạt động nhân quyền, các luật sư bênh vực cho các cộng đồng tôn giáo cũng nên được phóng thích.
Tiến sĩ Scott Flipse nói ông không phải là người duy nhất nêu lên các trường hợp cá biệt vừa kể, mà các tổ chức phi chính phủ và các chuyên gia về Việt Nam khác cũng nhắc tới các trường hợp này trong cuộc tiếp xúc với Trợ lý Ngoại Trưởng Posner.
Ông nói: “Đã đến lúc nên làm nhiều hơn là chỉ nói xuông, phải làm thế nào để Việt Nam phải hành động bằng cách phóng thích những vị này, hơn thế nữa, ngay từ đầu Việt Nam lẽ ra đã không nên bắt giữ họ.”
Tiến sĩ Flipse lặp lại đề nghị của Ủy ban Tự Do Tôn giáo Quốc Tế, là nên liên kết nhân quyền với các quan hệ khác, kể cả trong lĩnh vực chiến lược và an ninh.
Tiến sĩ Flipse nói: “Thông điệp mà chúng ta cần gửi đến người Việt Nam là đây là quyền lợi của người Mỹ, và chúng tôi sẽ không tiến hành các chương trình phục vụ quyền lợi kinh tế và an ninh của Việt Nam, đặc biệt liên quan tới cuộc tranh chấp Biển Đông, cho tới khi nào có tiến bộ về các quyền lợi của Hoa Kỳ như nhân quyền và tự do tôn giáo.”
Mới đây, trong một bài tham luận về quan hệ Mỹ- Á Châu, Ngoại trưởng Clinton khẳng định rằng hơn cả sức mạnh quân sự và quy mô của nền kinh tế Mỹ, tài sản quốc gia quý báu nhất là sức mạnh của các giá trị Mỹ, đặc biệt là lập trường ủng hộ dân chủ và nhân quyền, mà theo bà là trọng điểm của chính sách đối ngoại, kể cả chính sách nhìn về khu vực Châu Á-Thái bình dương hiện nay.
Ngoại trưởng Clinton nói: “Giữa lúc chúng ta thắt chặt hơn các quan hệ với những đối tác mà chúng ta còn nhiều bất đồng về các vấn đề ấy, chúng ta sẽ tiếp tục kêu gọi họ hãy cải cách để nâng cao kỹ năng cai trị, bảo vệ nhân quyền và thăng tiến các quyền tự do chính trị.”
Ngoại trưởng Clinton nêu lên trường hợp Việt Nam, nói rằng Washington đã khẳng định rõ ràng với Việt Nam rằng sự phát triển quan hệ đối tác chiến lược Việt-Mỹ đòi hỏi Hà nội phải đề ra những bước để bảo vệ tốt hơn các quyền làm người và thăng tiến các quyền tự do chính trị.
Tiến sĩ Scott Flipse kết luận rằng những lời lẽ ấy đã làm ông ấm lòng, mặc dù ông chưa biết ngoài đời thực, chính sách ấy sẽ được áp dụng như thế nào cho có hiệu quả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét