Phát biểu trong một hội nghị quốc gia vào đầu năm 2015, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, tuyên bố: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già [đều] có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc.”
Chuyện tại sao ông “lo lắng” và cho đó là một sự “nguy hiểm cho dân tộc” chúng ta sẽ bàn sau. Ở đây tôi chỉ chú ý đến một hiện tượng được chính Phùng Quang Thanh ghi nhận và thừa nhận: sự căm ghét Trung Quốc là một “xu thế” rất phổ biến, “từ trẻ con đến người già” tại Việt Nam.
Thật ra, “xu thế” ấy không phải chỉ có ở Việt Nam. Chỉ cần đọc qua các bản tin trên báo chí khắp nơi, chúng ta thấy ngay một hiện tượng: dân chúng ở Tây phương cũng khá khinh ghét người Trung Quốc. Nhóm từ “người Trung Quốc xấu xí”, trước, chỉ do những người Trung Quốc tự nói về chính họ qua những cái nhìn mang tính chất tự phê phán (tiêu biểu và nổi tiếng nhất là Bá Dương, 1920-2008, người Đài Loan, với cuốn sách mang nhan đề “Người Trung Quốc xấu xí” được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt). Gần đây, cách gọi “người Trung Quốc xấu xí” ấy tràn lan trên báo chí. Ở đây không phải là chuyện kỳ thị. Đó chỉ là cảm tưởng chung khi người ta nhìn thấy cách hành xử của người Trung Quốc du lịch ở nước họ. Trên báo chí đầy dẫy những hiện tượng trái tai gai mắt của người Trung Quốc, từ trên máy bay đến trên đường phố. Trên máy bay, có người tạt cả ly nước nóng lên mặt tiếp viên chỉ vì một sự bất bình nho nhỏ nào đó; có người đòi mở cửa cấp cứu trên chiếc máy bay đang bay trên không để cho “có không khí”; có người cho con ỉa ngay trên lối đi; có người doạ cho nổ máy bay vì không đổi được chỗ ngồi, v.v… Trên đường phố cũng vậy. Ở đâu có người Trung Quốc, ở đó có cảnh chen lấn, xô đẩy; cảnh khạc nhổ và vất rác bừa bãi; cảnh gây gổ, tranh giành, ầm ĩ; cảnh trố mắt nhìn vào sự riêng tư của người khác. Nhiều người cho người Trung Quốc là những du khách tệ hại nhất thế giới (the world’s worst travellers).
Ở Việt Nam, “xu thế” ghét người Trung Quốc cũng không mới mẻ gì. Ngày xưa, cha ông chúng ta cũng rất ghét người Trung Quốc. Trong Bình Ngô đại cáo viết thay cho Lê Lợi, Nguyễn Trãi xem Trung Quốc như một “thế thù”, tức kẻ thù truyền kiếp, từ đời này sang đời khác. Gần đây, sau cuộc xâm lược của Trung Quốc qua biên giới phía Bắc Việt Nam vào năm 1979, giới lãnh đạo Việt Nam cũng tuyên bố Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp và lâu dài của Việt Nam. Hiện nay, sự căm ghét người Trung Quốc còn phổ biến và sâu rộng hơn hẳn các thế hệ hay các thế kỷ trước. Người Việt trong nước ghét; người Việt ở hải ngoại cũng ghét. Ngày xưa, cha ông chúng ta có thể vừa ghét người Trung Quốc nhưng lại vừa ngưỡng mộ văn hóa Trung Quốc; bây giờ, phần lớn vừa ghét âm mưu xâm lấn của Trung Quốc vừa coi thường cả văn hóa Trung Quốc. Nhìn vào Trung Quốc, ở bất cứ khía cạnh nào, người ta cũng đều thấy những sự xấu xa và đầy đe dọa.
Những sự ghét bỏ ấy khiến tham vọng trở thành siêu cường quốc của Trung Quốc gặp khó khăn và thử thách. Nói chung, để trở thành một siêu cường quốc, người ta cần hai điều kiện chính: quyền lực cứng và quyền lực mềm. Quyền lực cứng thể hiện chủ yếu trên hai lãnh vực: kinh tế và quân sự. Quyền lực mềm thể hiện chủ yếu ở lãnh vực văn hóa và xã hội. Trung Quốc, với tham vọng trở thành một siêu cường quốc ít nhất ở châu Á, tập trung phát triển trên tất cả các lãnh vực ấy. Riêng về văn hóa và xã hội, họ muốn tạo sự thông cảm và ngưỡng mộ của thế giới với nền văn hóa lâu đời và đẹp đẽ của họ qua việc phát triển các Viện Khổng Tử ở khắp nơi trên thế giới. Không biết các hoạt động của các Viện Khổng Tử ấy có hiệu quả gì hay không nhưng chỉ thấy ở đâu người ta cũng căm ghét Trung Quốc.
Riêng ở Việt Nam, cho đến nay, có vô số bằng chứng cho thấy các chiến dịch vận động cho quyền lực mềm của Trung Quốc đã thất bại thảm hại. Ở đâu dân chúng cũng ghét Trung Quốc. Làm ăn với Trung Quốc, ừ, vẫn làm; mua hàng Trung Quốc, ừ, thì vẫn mua, nhưng ghét Trung Quốc thì vẫn cứ ghét. Sự căm ghét ấy lớn đến nổi bao nhiêu chiến dịch tuyên truyền cho cái gọi là “4 tốt” và “16 chữ vàng” của chính quyền Việt Nam đều thất bại, theo lời thừa nhận của Phùng Quang Thanh dẫn ở trên.
Tuy nhiên, sự căm ghét ấy có đủ để bảo vệ độc lập và chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông hay không?
Tôi sợ là không.
Lý do thứ nhất là chính phủ hoàn toàn không biết tận dụng sự căm ghét ấy để biến nó thành một vũ khí trong trận tuyến chống lại Trung Quốc. Ở đây, chúng ta lại thấy một nghịch lý: chính phủ và đảng Cộng sản Việt Nam lúc nào cũng cho họ là đại diện của nhân dân, tôn trọng ý nguyện của nhân dân, nhưng trong trường hợp này, mặc dù họ biết nhân dân rất căm ghét Trung Quốc, họ lại xem đó là điều đáng lo lắng và tìm mọi cách để ngăn chận và trấn áp những biểu hiện của những sự căm ghét ấy.
Thứ hai, bản thân người dân vừa căm ghét nhưng vừa bất lực và bế tắc. Ai cũng ghét Trung Quốc và ai cũng biết Trung Quốc đang mưu toan xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Nhưng rồi, tất cả đều thở dài, than: “Nhưng biết làm sao bây giờ?” Người ta cho Trung Quốc quá mạnh và Việt Nam quá yếu: tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Biết thế, nhưng thay vì tiếp tục tranh đấu, người ta lại chọn biện pháp buông xuôi, để mặc chính phủ và đảng Cộng sản lo liệu.
Sự kết hợp giữa căm ghét và bất lực ấy khiến người ta hài lòng với những lời than thở hay chửi bới vu vơ.
Không có một tên lính Trung Quốc nào chết vì những lời than thở hay chửi bới vu vơ như thế cả.
Nguyễn Hưng Quốc
(VOA)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét