Lúc nhỏ, phần lớn những hiểu biết của tôi về chiến tranh Việt Nam là từ những trải nghiệm của ông bà cha mẹ kể lại.
Tôi nhớ vào tuần lễ gần tới 30/4, truyền hình thường dành giờ vàng chiếu phim tài liệu, cải lương, vở tuồng về quân đội Việt Nam, về các bà mẹ Việt Nam anh hùng và các chiến công cũng như cảnh xe tăng tông vào Dinh Độc Lập.
Tôi nhớ nhất cảnh đó, đối với suy nghĩ quá đỗi ngây thơ của mình, và với những hiểu biết được dạy trong trường lớp, tôi thấy tự hào lắm. Nào là người Việt nhỏ bé chiến thắng đế quốc Mĩ, đánh đuổi thực dân Pháp, và cả bọn phát xít Nhật.
Tôi thật sự biết ơn cha mẹ của mình khi cho tôi được du học. Một trong những cơ hội mà tôi nhận được khi đi du học là được tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Tôi biết rằng, cô chú bác ở đây rất ghét cộng sản. Tất nhiên, khi lần đầu tiên nhìn thấy cờ vàng ba sọc đỏ, hay bài quốc ca mà họ hát. Tôi bị sốc. Tôi sốc vì tôi tổ chức ăn mừng, vui cười vào ngày 30/4 ở Việt Nam trên nỗi đau của hàng triệu người tị nạn, hàng triêu người lính hai miền đã nằm xuống. Tôi càng sốc hơn vì mình thờ ơ, ngu dốt vô cùng. Sống hơn 20 năm trên đời mà đến bây giờ tôi mới hiểu được phần còn lại của câu "triệu người vui, cũng như triệu người buồn" của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Tôi dành nhiều thời gian hơn để tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam theo quan điểm của những người bị gọi là “ngụy”. Ngày 30/4/1975, người miền Bắc gọi giải phóng, thì người miền Nam gọi là mất nước. Suy cho cùng thì những thuyền nhân, những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng, con mất cha mới chính là nạn nhân của chiến tranh. Tôi rất tức giận khi thấy sinh mạng của người dân mình, đất nước mình như là bàn cờ của các đế quốc. Càng tìm hiểu nhiều hơn, cái suy nghĩ hận thù chế độ cộng sản ban đầu mà tôi cảm nhận được khi đi du học, nó dần chuyển thành sự cảm thông cho người dân ở hai miền đất nước. Tôi nghĩ rằng, khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, ông ấy cũng mong một đất nước Việt Nam tự do, phồn thịnh và minh bạch.
Tin tức bây giờ cứ tập trung vào việc sự bành trướng của Trung Quốc. Giặc ngoại xâm không nguy hiểm bằng giặc nội xâm, lịch sử đã chứng minh cho tôi thấy điều đó. Cái văn hóa Á châu, hay đặc biệt hơn là người Việt Nam, rất chú trọng gia đình, về yếu tố con người.
Tôi nghĩ song song với việc phát triển kinh tế, chính phủ phải kiên quyết hơn, mạnh mẽ hơn trong việc giải hòa những hận thù, những mâu thuẫn của người Việt trong và ngoài nước. Tôi không hận ai cũng chẳng ghét ai. Tôi chỉ thấy thương người Việt mình, 40 năm chiến tranh kết thúc mà hận thù vẫn còn đó, mâu thuẫn vẫn còn đó. Cái trách nhiệm giải quyết vấn đề này là ở thế hệ chúng tôi, không phải nợ của con cháu chúng tôi.
Tôi luôn ước muốn rằng, ngày 30/4 không phải là ngày giải phóng đất nước mà được gọi là ngày hòa giải, ngày đoàn tụ. Vào ngày này, những người con Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới trở về quê hương ôm lấy bà con, gia đình mình trong hạnh phúc. Những người lính cộng hòa, lúc ra đi trong nước mắt, thì bây giờ được quay về trong vòng tay rộng mở của những người từng là kẻ thù của mình, trong nước mắt, họ xin lỗi nhau, vì lần đầu tiên, nước Việt Nam mới thật sự thống nhất.
Tôi chấp nhận rằng là tôi không đủ dũng cảm như một số nhà báo, luật sư dám đứng lên, thẳng thắng chỉ trích một nhà nước không minh bạch. Tôi chỉ mong những bậc tiền bối đừng từ bỏ hy vọng vào thế hệ chúng tôi.
Lúc nào, trong lòng của tôi cũng thao thức mong tìm được cách nào đó để khai sáng cho các nhà lãnh đạo hiện tại dám thay đổi. Một nhà lãnh đạo thật sự là người luôn đặt lợi ích của người dân trên lợi ít cá nhân.
Nhà nước phải khuyến khích tự do báo chí để những việc tham nhũng, lạm quyền, hối lộ bị đưa ra công lý. Hệ thống giáo dục cần được cải cách, môn lịch sử phải được chú trọng, chiến tranh Việt Nam cần được phân tích ở cả hai quan điểm của người thắng cuộc lẫn thua cuộc, để thế hệ trẻ học lịch sử hiểu rõ chiến tranh tàn khốc thế nào, để họ xây dựng một đất nước hào bình, độc lập, tự do, hạnh phúc và không vấp phải những sai sót mà tiền nhân đã đi qua.
Tác giả đang là du học sinh ở Canada.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét