Pages

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Lần đầu tiên VN xác định rõ 3 quyền phân lập của Nhà nước

dinhxuanthao
Đây là lần đầu tiên Việt Nam xác  định 3 quyền lập, hành pháp, tư pháp, đó là nguyên tắc hoạt động của bất kỳ nhà  nước nào”, ông Thảo nhấn mạnh.
Trao đổi với PV  bên lề Quốc hội chiều 25/5 về những nét mới của dự thảo  sửa đổi Hiến pháp 1992, ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng viện nghiên cứu lập pháp  của Quốc hội cho biết, dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đã có nhiều nội dung  rất mới, nhưng cái rõ nét nhất là vấn đề xác định rõ quyền của nhân dân, nhân  dân là chủ thể quyền lực tối cao, điều đó thể hiện qua việc lấy ý kiến dân để  xây dựng Hiến pháp, Quốc hội chỉ là đại diện thay mặt dân chủ trì.

Điều 2 của dự thảo Hiến pháp lần này đã nói rõ tất cả quyền lực thuộc về nhân  dân và nhân dân thể hiện quyền lực như thế nào thì ở Điều 6 đã thể hiện rõ, nhân  dân sử dụng quyền lực trực tiếp, tự mình trực tiếp tham gia điều hành xã hội và  sau đó là gián tiếp thông qua đại diện đó là Quốc hội, HĐND và các cơ quan Nhà  nước khác. Điều đó mở ra cái mới thể hiện cốt lõi việc thể chế hoá cương lĩnh  Đại hội  11 của Đảng và tinh thần dân chủ.
Một cái mới và rất quan trọng, Điều 2 so với trước đây ngoài sự bổ sung thống  nhất thì còn thêm sự phân công, phối hợp, kiểm soát 3 quyền lập pháp, hành pháp  và tư pháp.
Thưa ông, sự phân công chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan Nhà nước về  lập pháp, hành pháp, tư pháp được thể hiện cụ thể như thế nào trong sửa đổi Hiến  pháp lần này?
Với nguyên tắc của Điều 2 thì các Chương Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát,  Toà án trước đây chỉ nói công việc của các cơ quan này thôi chứ không nói cụ thể  cơ quan nào là lập pháp, hành pháp, tư pháp thì lần này nói rõ Quốc hội là cơ  quan lập hiến, lập pháp. Trước đây Hiến pháp ghi rõ “Quốc hội là cơ quan lập  hiến, lập pháp duy nhất” thì nay bỏ từ “duy nhất” đi thì điều đó chứng tỏ thì  ngoài Quốc hội còn có nhân dân có quyền lập hiến, lập pháp. Còn đối với Chính  phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp. Đối với Toà án là  cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Đây là lần đầu tiên Việt Nam xác định 3 quyền  lập, hành pháp, tư pháp, đó là nguyên tắc hoạt động của bất kỳ nhà nước nào.
Với chức năng như thế thì Hiến pháp cũng có điều chỉnh một số nhiệm vụ cụ thể  của từng cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, để thể hiện rõ vai trò, chức  năng nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước. Ví dụ Chính phủ là cơ quan hành pháp  thì sẽ nắm hết quyền năng hành pháp, Quốc hội chủ lập pháp, lập hiến và tòa án  là tư pháp thì quyền năng của từng cơ quan được phân định rõ ràng. Như vậy quyền  lực của Nhà nước đã được phân công rõ ràng rành mạch để kiểm soát, và kiểm soát  bên ngoài rộng nhất, cao nhất và mạnh nhất là của nhân dân.
Như vậy quyền lực cao nhất của Nhà nước thuộc về nhân dân?
Đúng, không chỉ có vậy, một vấn đề nữa có thể nói là cái được của việc sửa  đổi Hiến pháp lần này xuất phát từ quyền lực của nhân dân được thể hiện ở Chương  II. Đây là cái được nhân dân hoan nghênh đồng tình ủng hộ và thế giới đánh giá  cao, điều đó thể hiện ở việc đưa quyền và nghĩa vụ của người dân lên Chương  2.
Trong giao lưu, mở rộng hợp tác quốc tế với các nước thì chúng ta đưa vào  trong Hiến pháp lần này là tiếp tục khẳng định chủ quyền nhân dân, nên cái đáng  quan tâm nhất là vấn đề xác lập chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp và tạo ra một  cơ chế để luật hoá chủ quyền nhân dân.
Thưa ông sửa đổi hiến pháp lần này, vấn đề đất đai luôn được người dân  quan tâm, nhất là vấn đề thu hồi đất, ý kiến của ông về vấn đề này như thế  nào?
Nói về đất đai thì thống nhất cao đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng do nhà  nước đại diện chủ sở hữu. Trong sửa đổi Hiếp pháp lần này về vấn đề đất đai có  nội dung thu hồi đất, cái mới là ở Điều 57, 58 là thừa nhận quyền sử dụng đất,  cái quyền này là quyền tài sản. Chính vì vậy đất đai được pháp luật bảo hộ và  phải tôn trọng, nếu anh bị thu hồi thì phải xử sự đúng là quyền tài sản.
Theo dự thảo ban đầu là có 4 trường hợp thu hồi thì nay thêm trường hợp 5, đó  là thu hồi  đất phục vụ dự án phát triển kinh tế xã hội thì quan điểm của  tôi nó phải áp loại giá khác, phải sát với giá thị trường. 4 trường hợp thu hồi  đất quy định trong Hiến pháp trên là bồi thường theo giá của Nhà nước còn thu  hồi đất thuộc trường hợp 5 để phục vụ dự án phát triển kinh tế xã hội thì phải  thoả thuận với dân và bồi thường sát với giá thị trường.
Bây giờ vấn đề là nếu trong Hiến pháp không đưa vào cụ thể trường hợp 5 là  thu hồi đất phục vụ cho dự án phát triển kinh tế xã hội để thể hiện rõ những dự  án kinh tế nào mang lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng thì được áp giá đúng  theo quy định của lợi ích đó. Còn doanh nghiệp sử dụng đất để kinh doanh, làm  nhà thì phải tính theo giá thị trường và phải thỏa thuận với người dân.
Nếu chúng ta đưa trường hợp thu hồi đất thứ 5, vì mục đích phát triển  kinh tế xã hội, liệu có xảy ra trường hợp các doanh nghiệp thu hồi đất tràn làn  không, thưa ông?
Đây cũng là cái mà Quốc hội phải thảo luận kỹ. Bên Chính phủ cũng có nhiều ý  kiến là trường hợp thu hồi để phát triển dự án kinh tế xã hội nào thì ở tầm lợi  ích quốc gia, công cộng, còn loại bình thường vẫn thu hồi nhưng phải đảm bảo  quyền lợi của người có quyền sử dụng đất. ví dụ 1 tỷ đồng/m2 đất ở Hà Nội là  đúng nhưng khi đó chưa có quy định đất đai là quyền tài sản, giờ có rồi thì họ  bảo giá đất của tôi 1,2 tỷ đồng/m2  thì anh cũng phải chấp nhận thôi.
Xin cảm ơn ông!

Không có nhận xét nào: