∇ Nghe Bài Này
|
Trong những ngày gần đây nổi lên khá nhiều lo ngại về việc văn hóa Trung Quốc áp đảo đời sống văn hóa Việt Nam và những nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng nếu không nhanh chóng khắc phục, thay đổi tư duy lệ thuộc quá nhiều vào nền văn hóa ấy nước Việt không sớm thì muộn sẽ trở nên đồng hóa một cách tự nguyện với nền văn hóa phương Bắc.
Doanh nghiệp Việt Nam du nhập?
Lịch sử nhiều lần cho thấy mặc dù dân tộc Việt liên tiếp bị gót chân Trung Hoa dẫm lên nhưng cuối cùng sau khi rút đi phần để lại mảnh đất này chỉ là sự căm phẫn được hun nóng bởi sự ác độc của đoàn quân xâm lược. Những nét văn hóa ngoại lai không thể tồn tại với tình thần tự giác về mối họa Hán hóa. Tâm thức người Việt hình thành phản ứng tự nhiên như một liều thuốc chủng có khả năng chặn giữ sự độc hại của cái gọi là nền văn minh Trung Hoa nhiều ngàn năm về trước.
Tuy nhiên sau nhiều chục năm cùng chung ý thức hệ với đảng cộng sản Trung Quốc, Việt Nam đã gần như hy sinh mọi thứ để đạt mục đích mà Trung Quốc vẽ ra, kể cả mở cửa du nhập nền văn hóa phương Bắc mà không có lấy một sự chọn lựa hay cảnh giác nào khác như những thế kỷ về trước ông cha đã làm.
Sự lệ thuộc ấy rất nhẹ nhàng dưới vỏ bọc giao lưu, đôi khi tảng lờ dư luận. Như một phản xạ tất yếu, khi dư luận biết sự lên tiếng của họ không được chính quyền chú tâm, phần tiếp theo sẽ là im lặng. Phản ứng tiêu cực của sự im lặng trở thành thói quen lâu dần như một thứ logic bị cưỡng ép.
Người Việt Nam dùng bộ Lân, Ly, Quy, Phượng ở trong chùa và không có sư tử. Tóm lại sư tử không phải là con vật truyền thống của người Việt Nam và nó không được đặt bên ngoài cửa các di tích bao giờ cả.
-Phan Cẩm Thượng
Trong lúc doanh nghiệp làm ăn với Trung Quốc nở rộ khắp Việt Nam đã nảy sinh tình trạng chủ doanh nghiệp tự nguyện mang hình ảnh từ Bắc Kinh, Thượng Hải hay Quảng Tây về Việt Nam như đèn lồng đỏ, sư tử đá, trúc may mắn… cùng hàng trăm hình tượng khác. Người dân quen dần với sư tử đá Trung Quốc đặt ngồi trước các doanh nghiệp như một cách cầu sự may mắn hay chứng tỏ sức mạnh. Những con sư tử đá này được người dân chấp nhận như một phần của văn hóa Việt.
Văn hóa bị lai tạp do doanh nghiệp mang vào Việt Nam với ý thức kinh doanh, khai thác thị hiếu bình dân và nhất là thị hiếu Trung Quốc được thể hiện rõ nhất trong một công trình mới được vài năm tại tỉnh Bình Dương với tên gọi Lạc cảnh Đại nam Văn hiến.
Công trình du lịch này cố tái tạo lại lịch sử nước Việt nhưng do tầm nhìn hạn chế về kiến trúc của người thiết kế và kiến thức bị gò bó của chủ doanh nghiệp đã làm cho cái gọi là Đại Nam Văn Hiến trở thành lệch lạc và mang bản sắc Trung Hoa một cách lộ liễu. Bất cứ một người khách ngoại quốc nào khi bước vào đây đều có ý tưởng rằng khu du lịch này là một Trung Hoa thu nhỏ nhằm thu hút khách du lịch…Việt Nam chứ không ai khác.
Thật vậy, qua những thước phim quay lại cận cảnh người ta thấy hầu hết các công trình đều mang phong cách Trung Hoa, từ chiếc cầu Ngọc Bích, cho tới cổng Thanh Vân, con sông với thiết kế giả đá. . . từ mái cong của cung điện tới vòm trần, phù điêu, hoa văn hay tượng nổi. . nhất nhất như được lấy ra từ một bộ phim Trung Hoa nào đó.
Và hình ảnh Ngũ Lân Đại Cung chính là dấu chấm hết của cái gọi là Đại Nam này.
Câu chuyện sư tử đá Trung Quốc tràn ngập Việt Nam có thể lấy điển hình tại khu vực được gọi là văn hóa Đại Nam này. Trong khu vực “Ngũ lân đại cung” có năm con sư tử được gọi trại thành “lân” là bản sao chính xác của các con sư tử đá đang xuất hiện nhan nhản khắp nơi trên đất Việt. Theo nhà nghiên cứu Mỹ thuật Trần Hậu Yên Thế thì sự khác biệt lớn và dễ nhận ra nhất là sư tử Việt không có răng nanh ở hàm dưới trong khi sư tử đá của Tàu thì cả hai hàm đều có, hơn nữa nanh hàm dưới của sư tử Tàu lại sắc bén và rõ rệt hơn cả hàm trên.
Năm chú sư tử trong Ngũ lân đại cung đều có nanh hàm dưới.
Còn một loạt những hình ảnh Trung Quốc, hay lai Trung Quốc nằm lộ liễu trong công trình này khiến người có chú ý tới phải đặt câu hỏi: Lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến phát sinh từ ý tưởng của ai?
Thiếu kiến thức văn hóa nước nhà
Tuy nhiên nếu nhận xét rốt ráo toàn cảnh của sự thâm nhập văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam rất khó mà phân tích cụ thể từng chủ thể bởi sự thâm nhập ấy tiệm tiến và kéo dài trong hàng ngàn năm do đó dù có tích cực thế nào đi nữa người ta cũng sẽ đầu hàng khi một nền văn hóa khác âm thầm tiếp cận và tràn ngập mà người dân không được trang bị một vũ khí chống lại đó là nội hàm kiến thức văn hóa nước nhà.
Những con sư tử đá hôm nay sẽ là chứng tích về một giai đoạn vong bản giữa lợi ích kinh tế và sự tàn hại văn hóa đến từ lợi ích ấy. Những con sư tử đá của Trung Quốc khi mang ra nước ngoài chỉ là hình thức trang trí trong cộng đồng người Hoa nhưng khi đến Việt Nam chúng có thể biến thành thuốc phiện nhằm gây mê cả một dân tộc. Gây mê hay đánh tráo khái niệm về mỹ thuật dân gian sẽ dẫn đến vong bản ngay từ chỗ đứng trên đất nước của mình.
Nếu con sư tử Trung Quốc có tính chất áp chế được đặt trước cửa công đình, cửa quan biểu hiện cho quyền lực thì ở Việt Nam gần như người ta không dùng những hình tượng như thế.
-Phan Cẩm Thượng
Năm 2012 đất nước Dominica thuộc Trung Mỹ đã xảy ra vụ tẩy chay sư tử đá Trung Quốc mang sang nước này nhằm cổ súy hình ảnh của Trung Quốc đã bị người dân phản ứng quyết liệt vì không phù hợp với nền văn hóa của họ.
Nếu Việt Nam là một nước thuộc khu vực địa lý khác thì có lẽ cách ứng xử còn nặng nề hơn, tiếc thay số phận đã buộc chặt Việt Nam với Trung Quốc qua một đường ranh địa giới quá mỏng manh để người anh em khổng lồ này mỗi khi buồn hay vui đều có thể đạp lên và tiến tới.
Quay lại với câu chuyện sư tử đá Trung Quốc tràn lan tại Việt Nam người dân tỏ ra phấn khởi khi nhà nước nhập cuộc và yêu cầu cơ quan công quyền phải chú ý tới những vật trưng bày có liên quan tới yếu tố Trung Quốc.
Thật ra đây chỉ là một hành động chữa cháy nhất thời và ai cũng thấy rằng sẽ không bao giờ có hiệu quả.
Nếu ngăn chận hình ảnh mà Trung Quốc muốn quảng bá cho cái nhãn hiệu nước lớn thì cách tốt nhất là trang bị kiến thức cho người dân Việt Nam không lạc hậu hay mù mờ về văn hóa dân tộc, cụ thể là tri thức về các hình tượng trong đền chùa miếu mạo hay cung đình, văn miếu. Cách mà nhà nước tuyên truyền hiện nay không thể thuyết phục được người dân rằng Việt Nam đã từng có những nét văn hóa rất riêng chứ không phải luôn dựa vào văn hóa Trung Quốc mặc dù nền mỹ thuật dân gian Việt Nam vẫn còn khá sơ khai.
Trường hợp sư tử đá Trung Quốc bị hiểu một cách rất lẫn lộn đối với sư tử thuần Việt, nhà nghiên cứu mỹ thuật dân gian Phan Cẩm Thượng chia sẻ cách phân biệt giữa hai con sư tử này như sau:
“Di tích cổ Việt Nam, đình, đền, chùa, lăng mộ… người ta thường làm một đôi tượng chầu trước cửa nhưng không phải là sư tử mà thường là đôi chó đá hoặc là một đôi con nghê hay đôi con sấu. Con Nghê là biến dạng của con lân khi sang Việt Nam, con sấu thì đầu giống sư tử nhưng thân nó là con chồn. Những con này nằm ở lan can trước cửa bậc thềm của chùa còn nói chung người Việt Nam không ai đặt nó phía trước cổng chùa cả.
Con sử tử xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam và chúng tôi chỉ thấy ở thời Lý, từ năm 1010 tới năm 1225 còn sau đó thì gần như không còn trông thấy hình tượng sư tử nữa. Con sư tử thời Lý nó cũng đã được biến dạng, đôi khi giống như con rùa và đôi khi lại giống với con lân, người nó ngắn và có rất nhiều hoa văn. Nó không có tính chất đe dọa và cũng không ngồi rướn người cao như con sư tử Trung Quốc ngồi ôm vỏ cầu.
Con sư tử là hiện tượng cũng có nhưng không nhiều lắm. Nó không tượng trưng cho điều gì mang tính cách của người Việt Nam cả. Người Việt Nam dùng bộ Lân, Ly, Quy, Phượng ở trong chùa và không có sư tử. Tóm lại sư tử không phải là con vật truyền thống của người Việt Nam và nó không được đặt bên ngoài cửa các di tích bao giờ cả.
Hiện tượng đặt sư tử hồi gần đây, đặc biệt là tình trạng sao chép trực tiếp các mô hình ở Trung Quốc, đã gây phản cảm bởi vì đối với Trung Quốc thì Việt Nam đang có nhạy cảm về vấn đề chính trị, tất nhiên là có cả vấn đề văn hóa và người Việt không muốn những ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, ngay cả thời kỳ cổ xưa nếu có bị ảnh hưởng thì cũng Việt hóa nó đi.”
Phân tích về kiểu cách của con sư tử Trung Quốc nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng cho rằng nó được tạc qua ý thức áp chế của sức mạnh trong khi điều này đi ngược với nhận thức của người Việt bởi đối với họ, sức mạnh đó chỉ được dùng trong vai trò giữ gìn sự tôn kính trong tôn giáo chứ không phải áp chế và đe dọa.
“Tư duy người nông dân Việt Nam rất thô mộc nhưng nó tinh tế nằm trong thô mộc chứ nó không quá khéo léo. Nếu con sư tử Trung Quốc có tính chất áp chế được đặt trước cửa công đình, cửa quan biểu hiện cho quyền lực thì ở Việt Nam gần như người ta không dùng những hình tượng như thế. Có thể nói người Việt Nam không dùng chứ không phải là cần phân tích những hình tượng ấy làm gì cả.
Chỉ một số di tích có hình tượng sư tử chẳng hạn như con sư tử ở chùa Hương Lãng, con sư tử ở chùa Bà Tấm, chùa Phật Tích hay chùa Thông. Như vậy chỉ vào khoảng 5 hay 6 chùa từ thời Lý thế kỷ 11-12 là có hình tượng sư tử nhưng chủ yếu không đặt trước cửa chùa mà chỉ đội bệ tượng Phật. Đây là một nét riêng của người Việt Nam và hình thức cũng không giống con sư tử Trung Quốc một tí nào cả. Nó ngắn hơn và nó không vươn lên, nó trong tư thế nằm. Chân tay nó đầy hoa văn và giống một con nghê nhiều hơn.”
Sư tử đá chỉ là một góc văn hóa Việt Nam bị âm thầm xâm thực trong khi xã hội Việt Nam còn rất nhiều hình thức như thế. Khuynh hướng xã hội hóa các cơ sở tôn giáo và khu di sản văn hóa đã biến nhiều nơi trở thành chỗ cho các người có tiền lại yêu văn hóa Trung Quốc hơn văn hóa Việt Nam bởi tư duy tự ti mặc cảm về nền mỹ thuật dân gian nước nhà, có cơ hội tung tiền mang ảnh tượng Trung Quốc về làm vật tế lễ phụng thờ.
Lỗ hổng to lớn về trách nhiệm này rất khó lấp đầy khi chính quyền không chủ động ngăn chặn ngay từ lúc những ảnh tượng, vật phẩm tràn vào Việt Nam. Quả bóng trách nhiệm có vẻ quá nhẹ nên mặc sức lăn dài trên sân cỏ mà không có cầu thủ nào đón bắt.
Điều quan trọng hơn nữa đó là ý thức bảo vệ sự xâm thực văn hóa Trung Quốc vào Việt Nam còn tùy thuộc yếu tố tình hữu nghị lên xuống tới đâu. Sư tử đá Trung Quốc bị vạch ra sau khi dàn khoan HD-981 xuất hiện ở Biển Đông và chính quyền yêu cầu điều tra, tịch thu hay phá bỏ. Thế nhưng những chiếc đèn lồng đỏ tại Lạng Sơn tuy nghiêm trọng hơn nhưng do xảy ra trong lúc tình hữu nghị còn nồng ấm thì nó mặc nhiên được bỏ qua mặc cho dư luận ấm ức chỉ trích.
Điều này chỉ có thể giải thích rằng văn hóa Việt Nam không quan trọng bằng tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa, như vậy làm sao vận động quần chúng chung lòng gìn giữ cội nguồn dân tộc qua hành động cảnh giác với giặc văn hóa phương Bắc
?
?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét