Phan Nhật Nam
“…Vì có máu kiêu ngạo thêm tính ưa làm quan, người Việt Nam thường chỉ thích được kẻ khác nịnh bợ, tâng bốc. Những lời nói thiệt, nói thẳng kiểu Nguyễn Trường Tộ hay Phan Châu Trinh dễ làm vua quan ta phật ý…”
Không gì bực mình hơn là phải nghe người ta nói thiệt! Vì lời nói thiệt dễ làm mích lòng nhau. Nhứt là đối với những người thường hay được nghe những lời ca tụng, tán dương và kể cả nịnh bợ không có thiệt về mình, về gia đình mình, về cộng đồng mình và luôn cả về dân tộc mình!
Nói lên sự thực với người mình – người Việt Nam – quả là một chuyện hết sức khó làm. Bởi vì từ trước tới nay hầu hết những lời nói hay bài viết của người này đề cập đến người kia, nếu không là chửi bới quá đáng, thì cũng là tán dương quá độ. Trong tiến trình tán dương quá độ, mọi ngôn từ hoa mỹ đều được vận dụng để ca ngợi đối tượng, mà không có phần nào nghiêm chỉnh phê phán để cho đối tượng này thấy được những khuyết điểm cần phải sửa chữa. “Mặc áo thụng vái nhau,”đó là lối mòn mà người mình -đặc biệt là các văn nghệ sĩ- vẫn ưa dùng để công kênh nhau trên mọi phương tiện truyền thông có được, bất chấp lương tri và lẽ công bằng. Cứ hết ca ngợi lẫn nhau đến ca ngợi dân tộc mình riết như vậy rồi thành thói quen. Khi có người nào đó dám mon men vạch ra những khuyết điểm hay thói hư, tật xấu của người Việt Nam thì nhiều người sẽ lại nổi giận lên như thể là danh dự của họ đã bị xúc phạm nặng nề rồi. Không, đó chỉ là cái tự ái dân tộc hảo huyền mà thôi, thưa quý vị.
Sau khi đã nói vậy, bài viết sau đây không nhằm chê bai hay chửi bới ai hết, mà chỉ nhằm nói thiệt, tức nói lên sự thật, về những nguyên do tại sao mà một dân tộc vốn ưa hãnh diện về truyền thống lịch sử, văn hoá và đạo đức của mình như dân tộc Việt Nam mà bây giờ lại trở nên một trong những dân tộc trầm luân nhứt thế giới nếu xét về những mặt như nghèo đói, không luật pháp, tàn ác với nhau, tự cho mình là giỏi, hay tham lam, chuyên phản phúc, luôn chê bai và chửi bới những ai không phải là chính mình, coi chuyện ăn hối lộ là quyền đương nhiên của mình, lúc nào cũng chỉ coi trọng đồng tiền và vật chất…
Còn một điều này nữa. Người viết không muốn bị những người trừ trước tới nay chỉ thích được nghe người khác tán dương hay nịnh bợ (mà nay đành thất vọng vì không được tiếp tục nghe những lời tán dương, nịnh bợ đó) chụp mũ là cộng sản (như 90% những trường hợp cho thấy), là phản quốc, hoặc là coi thường dân tộc mình… Vì vậy, người viết đành ra tay trước để phòng thủ, tạm thời tự vỗ ngực nhận mình là một trong những người chống Cộng kiên cường nhứt thế giới, người có tình yêu nước Việt Nam nồng nàn nhứt, và người duy nhứt trong cộng đồng nhỏ bé cuả mình lúc nào cũng chỉ biết đặt quyền lợi của tổ quốc và dân tộc lên trên hết.
Dân tộc Việt Nam, ngoài những điểm ưu việt ghê gớm mà các dân tộc khác trên thế giới không có, còn có những khuyết điểm, hay nói huỵch tẹt ra là những thói xấu, mà các dân tộc kia không thể nào sánh nổi cho dù họ có cố gắng học hỏi hay bắt chước chúng ta cách mấy đi nữa. Những thói xấu này giải thích tại sao người Việt Nam mà chúng ta vẫn luôn luôn tự hào là thông minh xuất chúng đến như vậy mà bây giờ lại trở nên một trong những dân tộc lụn bại, trầm luân nhứt thế giới, tính cho đến cuối thiên niên kỷ này.(1) Những thói xấu của người mình thiệt ra khá nhiều, nhiều hơn mức bình thường. Người viết bài này chỉ gạn lọc và trình bày một số tính tiêu biểu đã gián tiếp hay trực tiếp đóng góp vào tình trạng đất nước Việt Nam ngày càng xơ xác, tiêu điều, các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại ngày càng tiếp tục chia rẻ, phân hoá tưởng như không bao giờ hàn gắn được. Các thói xấu đó là: không tôn trọng sự thực và lẽ phải, khoe khoang và kiêu ngạo, cố chấp, độc tôn, kỳ thị, tàn ác, thiếu cao thượng và ưa chơi gác, phe đảng, thiển cận, ganh ghét, thích làm vua làm chúa, không công tâm, không tôn trọng luật lệ, cướp công của người khác, ưa nịnh bợ, tâng bốc, thích ăn hối lộ, tham lam, không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc, không tuân giữ các cam kết… Những dẫn chứng về xã hội và lịch sử Việt Nam – cả ở trong lẫn ở ngoài nước – có thể giúp soi rọi vào cội nguồn và những ngóc ngách của các thói xấu nêu trên.
1. Không tôn trọng sự thực và lẽ phải: Lịch sử dân tộc Việt Nam do người mình viết có nhiều điểm mơ hồ và không đi sát sự thực, như những chi tiết liên hệ tới nguồn gốc dân tộc, về các vị nữ anh hùng, về công cuộc mở mang bờ cõi, về các lý do đằng sau việc cấm đạo Cơ Ðốc, về các triều đại nhà Nguyễn Tây Sơn và nhà Nguyễn, và gần đây nhứt là về các chiến thắng của Vua Quang Trung trước quân nhà Thanh xâm lược. (2) Những lời đồn đại về Ngô Triều sau ngày 1-11-1963 cũng như những tập hồi ký của các cựu Tướng Ðỗ Mậu, Trần Văn Ðôn, Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Ðính… (3) cũng là biểu hiện của tính không tôn trọng sự thực của người mình. Còn lịch sử Việt Nam do Ðảng Cộng Sản Việt Nam viết nên thì lại không hề có lấy một phần mười của tính trung thực cần có trong phương pháp sử học, mà chỉ nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền và tự tôn vinh của người Cộng Sản Việt Nam. Gần như người Việt nào ở hải ngoại cũng chửi bới Cộng sản, nhưng hễ đã được về thăm quê hương thì một số lại khen lấy, khen đễ Cộng sản, cốt sao cho được việc của mình và gia đình mình chớ không hề muốn nói lên sự thực chút nào.(4)
2. Khoe khoang và kiêu ngạo: Ðào Duy Anh, khi viết về dân tộc Việt Nam, đặc biệt chú ý tới tính hay khoe khoang, trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh của người mình. Trần Trọng Kim cũng cho rằng người Việt Nam hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng. (5) ở nước ngoài, chúng ta vẫn thường nghe nói tới sự thông minh và tài giỏi của người Việt Nam, tiêu biểu là số lượng học sinh và sinh viên học giỏi, đậu cao tại các học đường Âu, Mỹ, rồi tự lấy làm hí hửng là dân tộc mình number one. Bình tĩnh mà xét, điều này cũng không có gì lạ lắm, vì có cả trăm triệu người ở Châu Âu, Châu Mỹ đậu những bằng cấp mà người mình đã, đang và sẽ đậu, nhưng họ nào có xuýt xoa hay khua chiêng, gỏ mõ gì đâu, mà chỉ im lặng làm việc và thành công sau khi đã lấy được những bằngcấp kia. (6) Ðó là chưa kể tới câu hỏi mà ai cũng nhắc tới là Một người Việt Nam thì vậy, còn hai, ba hay nhiều người Việt Nam nữa đứng chung với nhau thì sao? Còn về tính kiêu ngạo thì có lẽ không ai kiêu ngạo hơn dân tộc mình, kể cả dân Thiên Hoàng Nhựt Bản và dân Con Trời Trung Quốc. Theo lời Cộng Sản Việt Nam (và ngay cả một số những người Quốc gia bị thua trận trước đây), thì Việt Nam quả là cái thế anh hùng khi một mình đánh thắng hết mọi đế quốc sừng sỏ từ Trung Hoa và Mông Cổ tới Pháp, tới Nhựt rồi tới Mỹ. Người Cộng sản còn phô trương rằng giới lãnh đạo của họ là những bộ óc ưu việt, những đỉnh cao trí tuệ cuả loài người tiến bộ trên thế giới đã xuất thần mà đề xướng ra hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Ðế quốc Mỹ rồi lại sáng suốt “dắt giống nòi” vào con đường xã hội chủ nghĩa. (7) Nên nhớ rằng kiêu ngạo là tính mà Ông Trời ghét nhứt, và cũng chính vì tật xấu này mà loài người hay bị Trời phạt nhiều nhứt. Các thành Sodom và Gomorrha (như được kể lại trong Thánh Kinh Cơ Ðốc Giáo) đều đã bị lửa Trời tiêu huỷ chỉ vì dân chúng ở đó quá kiêu ngạo đến nỗi lo ăn chơi sa đoạ và dâm loạn, bất chấp những điều răn của Thượng Ðế. Cứ xem dân tộc mình hiện đang bị nghèo đói, trầm luân, rên siết đêm ngày dưới ách Cộng sản thì biết ngay.
3. Cố chấp và ngoan cố: Không ai cố chấp và ngoan cố như dân ta. Cái gì của mình cũng là nhứt, còn người ta là hạng bét. Hễ đã tin là mình đúng rồi thì cứ bắt người khác phải theo cho bằng được; còn nếu sai thì vẫn cứ cố cãi cho tới chết chớ không chịu nhận là mình sai. Vua Tự Ðức không tin lời Nguyễn Trường Tộ nói là dân mình bị lạc hậu so với Tây phương, tiếp tục nghe theo Tàu gọi các nước Âu Mỹ là Tây di, rồi khư khư ôm lấy chính sách bế quan, toả cảng, để rồi cuối cùng dân tộc ta phải làm nô lệ cho thực dân Pháp. Hồi thập niên 1950-60, Hồ Chí Minh và phe đảng ông, vì tin rằng muốn cho đất nước giàu mạnh thì cả hai miền Nam, Bắc chỉ có cách là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà thôi nên đã nhứt quyết dùng võ lực buộc chính phủ và nhân dân Miền Nam Việt Nam phải từ bỏ con đường tự do dân chủ. Còn chính quyền Ngô Ðình Diệm hồi đó thì vẫn khăng khăng cho rằng các chính đảng khác, kể cả Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Ðại Việt, không có khả năng chống Cộng như mình. Phe quân nhân sau đảo chánh 1-11-1963, vì quá tự tin ở khả năng mình, đã không để cho các nhà lãnh đạo dân sự có cơ hội cầm quyền tại Miền Nam Việt Nam, cho dù họ có tài đức đến đâu. Cộng sản Việt Nam thì cho giáo điều của họ là hay nhứt, không có lý thuyết chính trị nào hay hơn, kể cả bọn xét lại Liên Sô và bọn hiện đại hoá Trung Quốc. Ngay cả sau khi Liên Sô, vị thánh tổ của Cộng sản thế giới và đại sư báọ của Cộng sản Việt Nam, đã sụp đổ cùng với khối Cộng sản Ðông Âu hồi 1991, Cộng sản Việt Nam, dù biết rằng mình đã hoàn toàn sai trái, nhưng vẫn ngoan cố không chịu nhìn nhận điều này để sửa đổi chế độ cho dân tộc được nhờ. Một số đảng viên đã ly khai của họ – như “hồi chánh viên” Bùi Tín chẳng hạn – vẫn cứ nhứt định cho rằng chỉ có giới lãnh đạo tại Hà Nội, chớ không phải là chủ nghĩa Cộng sản, đã sai lầm. Các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại, tiêu biểu là tại Nam California, không ai nhịn ai, mạnh ai nấy xưng hùng, xưng bá, làm cho cộng đồng nát bét, chẳng qua cũng chỉ là vì tính cố chấp mà thôi.4. Ðộc tôn: Người mình, nhứt là các nhà lãnh đạo, thường có tính ưa độc tôn, tức là chỉ muốn độc quyền làm lãnh tụ hay chỉ muốn lịch sử ghi nhận rằng không có ai ngoài họ có thể trị nước an dân. (8) Hồ Chí Minh vẫn thường nói với đám con nít: “Xưa các Vua Hùng có công dựng nước, nay Bác cháu ta có công giữ nước.” (ý của họ Hồ là chính ông ta, chớ không phải là ai khác, mới là kẻ có công giữ nước.) (9) Chính vì cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ muốn thế giới coi ông là người anh hùng duy nhứt có khả năng giữ vững được Miền Nam Việt Nam khỏi bị Cộng sản nuốt sống nên ông đã cố tình làm cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải tan rã (cho thiệt đúng với câu après moi le déluge, nghĩa là nếu tao mà xuống ngôi rồi thì tụi bây chỉ còn có nước đắm chìm trong bể khổ), (10) rồi lại ráng canh cho tới giờ thứ 25 mới giao quyền lại cho cựu Tướng Dương Văn Minh để cho ông này, vốn cũng không có tài kinh bang tế thế gì mấy, chỉ còn kịp đầu hàng Cộng sản mà thôi. (11) Trong các cộng đồng người Việt hải ngoại cũng vậy, phàm người không làm được việc gì để phục vụ đồng hương thì cũng chẳng thích kẻ khác làm được việc cho cộng đồng để nổi bật hơn mình. Thái độ này đã và đang là trở lực chính ngăn chặn Việt Nam tiến lên bắt kịp với trào lưu tiến bộ hiện nay của thế giới. Người Cộng Sản trong nước, dù biết chắc là họ thua tài, thấp trí và bất lực, vẫn không chịu chấp nhận một thể chế dân chủ đa nguyên để cho người Quốc gia có cơ hội đóng góp tài năng xây dựng đất nước.
5. Kỳ thị: Người Việt hải ngoại, nhứt là tại Mỹ, vẫn hay cười chê người da trắng bản xứ là kỳ thị chủng tộc này nọ. Nhưng hãy suy gẫm kỹ mà xem thử người mình có mắc bệnh kỳ thị hay không, và bệnh đó so với người Mỹ thì nặng hay nhẹ hơn. Người viết bài này nhớ hồi nhỏ, lúc còn đi học, vẫn được mấy anh lớn trong xóm dạy cho một bài hát châm chọc người Hoa kiều -thường được gọi là “các chú” di cư sang buôn bán làm ăn tại Việt Nam. Bài hát có câu: Si-noa là giống bên Tàu, đẻ ra thằng Chệt ăn toàn… trâu! Ðối với dân tộc thiểu số miền núi (như Rhadé, Tày, Mạ, Mán…), người mình không ngần ngại gọi họ là “mọi,” với ý nghĩ rằng họ là những giống người kém văn minh hơn ta đây. Dĩ nhiên là đối với hai ông bạn láng giềng Lào và Căm-Bốt thì người Việt Nam lúc nào cũng vẫn tự coi là mình hơn người ta một bậc, bất kể về phương diện nào. Lại nhớ ngày xưa khi còn lính Mỹ tại Việt Nam, những người đi làm sở Mỹ hay phụ nữ kết hôn với binh lính và sĩ quan Mỹ vẫn còn bị coi là làm chuyện kém vinh dự hay thiếu đạo đức (vì ham tiền mới làm), và con lai – dù lai Pháp hay lai Mỹ – vẫn bị xã hội mình coi rẻ, nếu không bảo là khinh khi, gọi là “đồ lấy Tây,” “đồ lấy Mỹ.” (Chả bù với thời nay, có chút dính dáng về máu huyết hay hôn nhơn với người Mỹ da trắng, kế tới là Anh, Pháp, Ðức, Hà Lan, Gia Nã Ðại, ý, Ðan Mạch, Na Uy, Thuỵ Ðiển, Áo, Úc… thì lại là một vinh dự lớn lao!)
6. Tàn ác, thiếu cao thượng và ưa chơi gác: Thật ra, người Việt Nam mình không phải là một chủng tộc có bản tính tàn ác. Trong các vua đời Nhà Lý và Nhà Trần, nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của Phật Giáo, nhiều vị đã hết sức thương dân và còn biết đem lòng từ bi, hỉ xả cuả nhà Phật ra để dạy dân biết ăn ở cho có đạo đức, nhân từ. Về mặt tàn ác của người mình, sử sách còn ghi lại cách đối xử tàn bạo cuả binh lính Nhà Nguyễn dưới quyền Tướng Nguyễn Huỳnh Ðức lúc đang chinh phạt Cao Miên (đời Vua Thiệu Trị). Cung cách Cộng sản Việt Nam đối xử với tù binh Mỹ trong tay họ phải nói là tàn ác và tồi tệ chẳng thua chi quân phiệt Nhựt hồi Thế Chiến II nữa. (12) Người Mỹ, tuy bị coi là ham mê tình dục mà ít chú trọng tới danh dự (kiểu Clinton) và chỉ nghĩ đến cá nhân mình, nhưng lại giàu lòng thương hại kẻ yếu kém hơn họ. Chẳng hạn, người Mỹ, lúc đã trở nên giàu có, thường dùng tiền bạc dư thừa để làm việc từ thiện, dù có khi chỉ để mua danh. Và họ ít khi muốn đánh kẻ đã ngã ngựa, cho dù kẻ đó là Ðức hay Nhựt. Việt Nam mình thì khác: Kẻ thắng sẽ đánh, giết người thua cho tới cùng. Các ví dụ trong lịch sử gồm có chuyện Trần Thủ Ðộ giết hại tôn thất nhà Lý, chuyện Vua Gia Long cho đào mả Vua Quang Trung để lấy đầu lâu đái vào và xử tử nữ Tướng Bùi Thị Xuân cuả Tây Sơn một cách tàn nhẫn, chuyện các vua đời Hậu Lê và Nguyễn giết hại công thần… Quân viễn chinh Việt Nam tại Lào và Căm-Bốt luôn luôn chơi gác đồng minh của mình, dù phe taọ là Quốc gia hay Cộng sản. Hiện đại nhứt vẫn là chuyện Cộng Sản Bắc Việt chơi gác Mỹ tại bàn Hội nghị Ba-lê, với lá bài tẫy là tù binh Mỹ trong tay họ. (Có điều trớ trêu là người Mỹ chỉ ngu đoản kỳ, trong khi Cộng sản Bắc Việt lại ngu trường kỳ!)
7. Phe đảng: Không dân tộc nào lại có tính phe đảng hơn người mình. Phe đảng đây có nghĩa là ngoài mình ra, mình chỉ lo cho vợ con mình, bà con mình hay bè bạn mình là hết, còn đất nước thì cứ kệ mẹ nó, muốn ra sao thì ra. Ðiều này đúng cho cả phe Quốc gia lẫn phe Cộng sản, cho nên đất nước mình mới mau chóng tàn mạt như thế này. (13) John Paul Vann, Cố vấn Trưởng Vùng II Chiến thuật hồi thập niên 1970, đã ngỏ ý xa gần rằng “người Việt Nam là những kẻ yêu thương chan chứa nhứt (thế giới)” (the Vietnamese are the greatest lovers), ý nói người mình chỉ biết yêu thương, lo lắng cho sự an nguy của quyến thuộc, thân bằng mà quên đi vận mệnh chung của đất nước. Ngay cả lúc cần phải lui quân (cỡ Dunkerque), sĩ quan và binh lính ta vẫn đèo bòng vợ con làm cho cuộc triệt thoái thêm phần vướng víu, chậm chạp và dĩ nhiên là nhiều thương vong. Hồi còn Việt Nam Cộng Hoà, cái triết lý một người làm quan, cả họ được nhờ là triết lý phổ biến nhứt và được nhiều người theo nhứt. Ai cũng chê Tổng Thống Diệm là gia đình trị, nhưng nếu chính quyền rơi vào tay một gia đình khác thì cũng thế, có điều là gia đình này có độc tài và tham nhũng hơn gia đình kia hay không mà thôi. Thời quân nhân cầm quyền ở Miền Nam Việt Nam thì chỉ có ai trong đảng ka-ki mới được trao quyền cai trị đất nước. Quân đội thì lại bị một số tướng lãnh coi như là tài sản riêng, để rồi họ cứ nhân danh tập thể Quân đội mà ban phát cấp bậc hay chức vụ cho những ai trung thành với họ. Thời Cộng sản thì khỏi nói rồi, chỉ có “Ðảng ta” là xứng đáng được ăn trên, ngồi trốc, làm giàu và cho con du học (Ðế quốc) Mỹ mà thôi! Thử hỏi một khi đã mở cửa cho dân chủ đa nguyên thì làm sao mà Cộng sản có thể thực thi chính sách phe đảng cho được?
8. Thiển cận: Ai viết sách hay giảng thuyết nơi đâu cũng khen ông cha chúng ta là nhìn xa, trông rộng. Sự thật chỉ đúng một phần nào đó mà thôi như phần chịu nhịn nhục triều cống Trung Hoa sau mỗi đợt chiến thắng quân xâm lược phương Bắc còn phần nhiều là thiển cận. Vì vậy dân tộc ta mới bỏ mất cơ hội canh tân đất nước (thời nhà Nguyễn), cơ hội hoà giải dân tộc và tái thiết đất nước thời hậu chiến (khi Cộng sản thắng năm 1975) và cơ hội lấy lại Quần đảo Hoàng Sa vốn là lãnh thổ của ta 100 phần trăm (khi Trung Cộng đang bị đánh bại trên mặt trận sáu tỉnh biên giới phía Bắc). Cứ nhìn các công trình kiến trúc nhỏ xíu của các triều đại vua, chúa Việt Nam để lại cho hậu thế thì biết: Không phải tại vua, chúa ta nghèo hay chẳng muốn vắt kiệt sức dân để phục vụ quyền lợi riêng như vua Tàu, vua Miên, vua Xiêm hay vua Lào đâu, nhưng chính là vì cái nhìn cuả người mình không thoáng, không vượt quá luỹ tre xanh đầu làng nên các công trình kiến trúc của mình thiếu vẻ bề thế, bao la và hùng tráng. (14) Cũng chỉ vì tầm nhìn không xa, không rộng nên dân chúng Miền Nam mới liên tục biểu tình đòi hoà bình với bất cứ giá nào, đòi Mỹ cút ngay, cho dù Việt Cộng đang đánh sát sàn sạt bên hông. Còn các tướng, tá trong Quân Ðội Cộng Hoà thì chỉ thích lật đổ Tổng Thống Diệm cho khuất mắt để được dịp tự lên lon cho lẹ! Và cũng chính vì cái tính thiển cận này mà người Việt hải ngoại ít quan tâm đến những cuộc đầu tư có tính cách lâu dài, như đầu tư vào chính trị (đi bầu cho đông để tạo áp lực, ra tranh các chức vụ dân cử…) hay đầu tư vào văn hoá (cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam, làm công tác bất vụ lợi…) mà chỉ thích làm sao hễ sáng bỏ tiền ra là tối phải thu lợi vào ngay, chớ không thể để ngâm vốn lâu được!
9. Ganh ghét và đố kỵ: Tại sao người Việt hải ngoại sau hơn hai thập niên sống lưu vong vẫn chỉ làm được có mỗi một việc (coi không được) là đem nộp cho Cộng Sản Việt Nam hơn một tỷ đô-la mỗi năm? Ðó lại người mình không đoàn kết (trong tình đồng bào cũng như trong sách lược chung), mà cỗi nguồn của tình trạng này vẫn là lòng ganh ghét, đố kỵ nhau từng ly, từng tí. (15) Ðối với người mình, trâu buộc ghét trâu ăn đã đành, nhưng trâu ăn này lại còn ghét cay, ghét đắng trâu ăn kia nữa mới là đáng nói! Một ví dụ điễn hình là vụ Còi hụ Long An thời Ðệ nhị Cộng Hoà ở Miền Nam Việt Nam, tức là vụ phe của Bà Thiệu tranh đua buôn lậu với phe của Bà Khiêm, đôi bên đều sử dụng các lực lượng quân đội hùng hậu, kéo còi hụ hộ tống hàng hoá um sùm trời đất. Người viết bài này trộm nghĩ phe Cộng sản bên nhà cũng chẳng khá hơn phe hải ngoại trong lãnh vực này. Cứ nhìn việc “Ðảng ta” hạ bệ ngay và không tiếc xót “đệ nhất công thần” Võ Nguyên Giáp sau trận Ðiện Biên Phủ hồi 1954, cứ nhìn những cuộc thanh trừng nội bộ liên tiếp trong “Ðảng ta” -mà Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là nạn nhân “đáng thương” nhứt- từ hồi chiếm được Miền Nam Việt Nam đến nay thì đủ biết.
10. Thích làm vua, làm chúa: Cái này thì đã rõ từ thời còn mồ ma thực dân Pháp kia, khi các quan cai trị Pháp nghiên cứu về dân tộc tính của người “An-nam” ta. Một vị Tây mũi lõ -dường như là Toàn Quyền Pierre Pasquier- đã “phán” thẳng thừng: Trong bụng mỗi một người An-nam đều có một ông quan. Câu nói này tuy hơi khắt khe nhưng cũng đã nói lên tính thích làm vua, làm chuá của người mình. Chính vì cái tính này mà người mình đâu có ai chịu phục ai. Bởi thế cho nên, nhìn quanh, nhìn quất trong cộng đồng người gốc á châu-Thái Bình Dương ở hải ngoại, chỉ có nhóm người Việt Nam mình là phải thường xuyên khổ sở vì tranh chấp và kiện tụng về quyền lãnh đạo, từ các trung tâm văn bút cho tới các ban đại diện cộng đồng. Quý vị còn lạ gì khi thấy cảnh bên Mỹ một tiểu bang hay nửa tiểu bang mà có tới hai, ba ban đại diện cộng đồng Việt Nam, trong khi đó xuất hiện hằng trăm hội đoàn, mà hầu hết các hội đoàn này chỉ có chủ tịch đứng tên trong hội đồng quản trị mà thôi. Thậm chí có người đã cả gan một mình đứng làm chủ tịch cả chục hội đoàn, vừa Việt vừa Mỹ. Mà phải như các hội đoàn này có hoạt động gì ích quốc, lợi dân cho cam! Trái lại, nó chỉ hiện diện để người cầm đầu dễ bề lợi dụng danh nghĩa cộng đồng vào những âm mưu làm kinh tế hay chính trị riêng tư của họ.
11. Không công tâm: Không công tâm tức là tư vị, mà chuyện này thì xảy ra như cơm bữa tại Việt Nam dù dưới chế độ nào đi nữa. Con ông, cháu cha (phải được ưu tiên) vẫn là phương châm của mọi thời đại. Vì không công tâm nên mới sinh ra nạn phe đảng và bè phái làm ung thối mọi cấp chính quyền trong quá khứ cũng như hiện tại, bên này hay bên kia vĩ tuyến 17 cũng vậy. Chính nhờ nổi tiếng là có công tâm nên Cụ Trần Văn Hương mới được mời làm đến Thủ Tướng và sau đó là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng điều đáng tiếc cho vận nước là số người như cụ không nhiều hơn số ngón trên một bàn tay đã cụt hết bốn ngón rồi! Bệnh không công tâm còn thể hiện qua cách viết lách, tường thuật, phê phán vụ việc và ghi chép lịch sử nữa. Ðặc biệt về cuộc Chiến Tranh Việt Nam, người Việt Nam, ở một mức độ cao hơn người Mỹ, thường thiếu công bằng khi kể lại các sự kiện xảy ra. Nếu là một cựu quân nhân Nhảy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến hay bộ binh viết về một trận đánh nào đó tại Nam Việt Nam, thành tích của đơn vị gốc cuả tác giả thường được đề cao, trong khi thành tích cuả các đơn vị bạn lại bị kín đáo dìm xuống hay có khi bị lờ đi, không đề cập gì tới cả. (16) Lối tường thuật và viết sử của Cộng sản dĩ nhiên là còn tồi tệ hơn nhiều, nghĩa là không đếm xỉa gì tới sự thực mà hoàn toàn thiên vị nhằm mục đích tuyên truyền và độc tôn phe Cộng sản. Dĩ nhiên, một lý do khác của sự thể này là người cầm bút của mình thường thiếu phương pháp sử học và không hề để ý tới nguyên tắc vô tư trong tường thuật báo chí.
12. Không tôn trọng luật lệ: Chính nhờ tinh thần thượng tôn luật pháp mà Mỹ Quốc, tuy chỉ mới lập quốc có hơn 200 năm, nay đã trở thành một siêu cường giàu mạnh nhứt thế giới. Nhưng Việt Nam ta thì coi như không mấy ai bận tâm đến chuyện phải tôn trọng luật pháp. Ðây là hậu quả tất yếu của một quốc gia phải trải qua cả nghìn năm chinh chiến, hết nội thù đến ngoại xâm, hầu như không có lúc nào được an hưởng thái bình đủ lâu để củng cố hệ thống luật pháp chung cho đất nước. Ðất nước Việt Nam tuy mang tiếng là được trung ương tập quyền từ đời Lý (thế kỷ thứ 11-13) nhưng thiệt sự triều đình chỉ nắm được quyền thu thuế và bắt lính qua trung gian một hệ thống làng xã khá vững chắc. Phép vua thua lệ làng, câu này vừa nói lên tính tự trị từ ngàn xưa cuả hệ thống làng xã Việt Nam – vì triều đình quá bận bịu chinh chiến chống ngoại xâm và nội thù – vừa nói lên sự lỏng lẻo cuả luật pháp quốc gia. Hay nói khác đi, Việt Nam chỉ thiệt sự có luật pháp quốc gia từ đầu thế kỷ 19 với Bộ Luật Gia Long, mặc dù, trên nguyên tắc, đất nước đã có luật pháp chung kể từ thời Lê Thánh Tôn (thế kỷ thứ 15) với Bộ Luật Hồng Ðức. Nói chung, ý thức tôn trọng luật pháp của người mình rất thấp. Một phần là vì khả năng truyền thông yếu kém do tình trạng nghèo nàn lạc hậu, phần khác do đầu óc sứ quân và óc địa phương, làng xã còn nặng, phần khác nữa do đời sống dân chúng hãy còn quá đơn giản, chưa có những nhu cầu phức tạp của một dân tộc văn minh cao. Khi Cộng Sản cởi đầu, cởi cổ được cả hai miền Nam Bắc thì họ liền trở về với tình trạng phân hoá sứ quân cũ, nghĩa là mỗi tỉnh đều có luật lệ riêng để áp dụng, có khi luật tỉnh (do bí thư tỉnh ủy đảng Cộng Sản hành xử) còn được đặt trên cả luật pháp quốc gia, với dụng ý để cho cán bộ tỉnh dễ bề tham nhũng và có thể tuỳ tiện ăn hối lộ mà không cần phải trình báo cho trung ương. Và rồi tình trạng vô luật pháp chỉ là một hậu quả tất nhiên của tệ nạn tham nhũng và hối lộ lan tràn, bởi vì lúc nào cũng thấy diễn ra cảnh “nén bạc đâm toạc tờ giấy.” Ngày nay, những ai từng về Việt Nam du lịch đều nhìn nhận rằng Việt Nam không hề có luật lệ giao thông. Hễ đã ra đường rồi thì mạnh ai nấy chạy, mạnh xe nào nấy đi, chừng nào tai nạn xảy ra thì cứ chửi nhau inh ỏi cả lên, ai to tiếng hơn thì thắng, còn có bồi thường thì cũng chỉ là vờ vịt, qua loa mà thôi, chủ yếu là xuýt xoa xin lỗi.
13. Cướp công của người khác: Vì không có một hệ tư tưởng hay học thuyết dân tộc cuả riêng mình, người Việt Nam rất dễ dàng tiếp nhận những luồng tư tưởng từ bên ngoài. Việt Nam đã du nhập nào Khổng Giáo, Lão Giáo, Phật Giáo, Cơ-Ðốc Giáo, chủ nghĩa tự do dân chủ Tây phương, chủ nghĩa duy vật Mác-xít Lê-nin-nít, triết học hiện sinh cùng với các trường phái nghệ thuật từ cổ điển và lãng mạn tới ấn tượng và lập thể. Người mình còn ưa lấy các học thuyết khác nhau của Trung Hoa và Ấn Ðộ xào nấu lại rồi cho đó là công trình sáng tạo của mình, gọi các công trình đó là một hình thức Việt Nho hay Việt Học. (17) Các sản phẩm kiến trúc hay âm nhạc cuả Việt Nam thiệt ra đều là những bản sao có thêm thắt cuả lối xây cất hay cách thế ca hát, nhảy múa của Trung Hoa và Chàm (Ấn Ðộ). (18) Các nhà cai trị thực dân Pháp cũng từng ghi nhận rằng dân tộc Việt Nam có tài bắt chước, mà hễ đã bắt chước thì không phải là sáng tạo mà chỉ là lấy của người làm của mình thôi. Một tỷ dụ điển hình khác cuả thói xấu này là tật “cướp công cách mạng” khi Cộng Sản tự vỗ ngực cho rằng chính họ là người duy nhứt đi tiên phong trong phong trào đánh Pháp, đuổi Nhựt. Thiệt sự thì những đảng phái quốc gia khác như Việt Nam Quốc Dân Ðảng hay Ðại Việt, hoặc các giáo phái như Cao Ðài và Hoà Hảo cũng là những thành phần có công chống Pháp, kháng Nhựt vậy. Chỉ có điều là họ không giành được chính quyền vào tay để mà tha hồ kể công với lịch sử như Cộng sản đang làm.
14. Ưa nịnh bợ, tâng bốc: Vì có máu kiêu ngạo thêm tính ưa làm quan (như đã kể trên), người Việt Nam thường chỉ thích được kẻ khác nịnh bợ, tâng bốc. Những lời nói thiệt, nói thẳng kiểu Nguyễn Trường Tộ hay Phan Châu Trinh dễ làm vua quan ta phật ý. Sử chép rằng Vua Khải Ðịnh thích được các quan quỳ lạy, xưng tụng đến nỗi nhà vua đã cho thiết lập cả một triều đình ngay tại Marseilles trong thời gian có Hội Chợ Kinh Tế (Ðấu Xảo) Ðông Dương thuộc Pháp năm 1925. (19) Tổng Thống Diệm cuả Miền Nam Việt Nam chỉ thích được nghe người ta suy tôn Ngô Tổng Thống. Nhưng họ Hồ và Ðảng Cộng Sản Việt Nam thì ở một mức độ cao hơn nhiều. Ðám bồi bút và văn nô cuả Hồ Chí Minh, đứng đầu là Tố Hữu (nhà thơ mà sau làm đến Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Ðổi Bạc) với các phụ tá như Xuân Diệu, Nguyễn Ðình Thi, Huỳnh Minh Siêng… lúc nào cũng sẵn sàng làm thơ, làm văn, làm nhạc, hết mình ca tụng Bác và Ðảng. Và cho dù Bác và Ðảng có thực sự xua đẩy đất nước mình xuống bờ vực thẳm, họ cũng không hề dứt lời say sưa ca ngợi: Bác đến từng nhà thăm các cụ già, cầm tay chúng con, Bác bắt nhịp bài ca kết đoàn. -Tiếng Hát Thành Phố Mang Tên Người.15. Thích ăn hối lộ: Ðây là căn bệnh chung của phần lớn các quan lại và những người mà trong bụng lúc nào cũng có một ông quan. Bệnh phát triển quá mức bình thường một khi niềm tin vào kỷ cương và giềng mối cuả đất nước tan rã. Tại Miền Nam Việt Nam, sau khi chiếm được Dinh Gia Long, phe đảo chánh Tổng Thống Diệm chỉ tìm thấy chiếc giường gỗ và một giá sách trong phòng ngủ của ông. Nhưng sau khi Tổng Thống Thiệu ra đi, người ta tin rằng ông đã mang theo ra nước ngoài nếu không phải là cả tấn vàng thì cũng một số lớn tài sản tích luỹ được ố-kể cả các chương mục ngân hàng tại Thuỵ Sĩ- sau 10 năm cầm quyền. Các tướng lãnh dưới quyền ông từ Trần Thiện Khiêm tới Cao Văn Viên và Ðặng Văn Quang cũng đều được người đời nhắc nhở tới như là những tay tham nhũng lớn của chế độ. Các vị này vẫn thường coi chuyện ăn hối lộ và tham nhũng như là quyền đương nhiên của giới lãnh đạo, nhứt là trong lúc đất nước đang có chiến tranh, bản thân họ thì phải vào sanh ra tử. Tỷ dụ như Tướng Ðỗ Cao Trí, một vị tướng rất tài giỏi (cỡ Patton) nhưng không sạch của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong một phút cao hứng, từng nói với báo chí ngoại quốc rằng ông vừa đánh giặc vừa làm giàu, (ý nói ông có quyền tham nhũng và buôn lậu qua vùng tam biên). Nhưng than ôi! Tham nhũng cỡ đó thì đâu có thấm béo gì nếu so với các quan chức Cộng sản hiện đang toàn quyền cai trị 75 triệu dân Việt Nam (và một số Việt kiều yêu nước ở hải ngoại)! Trên thực tế, tình trạng tham nhũng và hối lộ ở Miền Nam, phát sinh từ chiến tranh chống Cộng, đã gia tăng với một nhịp độ khủng khiếp sau khi Sàigòn rơi vào tay Cộng sản. Và tình trạng này đã lây lan mãnh liệt, làm ung thối luôn cả chế độ Cộng sản Miền Bắc vốn bị kìm hãm trong kỷ luật sắt của một nước độc tài, đảng trị (đang dốc hết mọi tài nguyên vào cuộc chiến tranh xâm lược nước khác) và quá nghèo nàn, không biết lấy gì để tham nhũng cho ra trò. (20) Dân chúng Miền Nam Việt Nam vẫn cho rằng ngày xưa vì chỉ có các ông lớn ăn -mà phần lớn là ăn tiền của Mỹ cho- nên dân còn đỡ đỡ một chút. Nay dưới trào Cộng sản thì mạnh lớn, lớn ăn, mạnh nhỏ, nhỏ ăn (mà lại chỉ ăn vào tiền mồ hôi nước mắt cuả dân chúng chớ làm gì có viện trợ của Liên Sô hay Trung Quốc đổ xuống dồi dào như hồi Mỹ chưa phụ bạc Miền Nam Việt Nam) nên đất nước ta mới xác xơ đến vậy. May mà có Việt kiều hải ngoại thương tình mỗi năm chính thức bôm vào trong nước khoảng 1 tỷ rưỡi đô-la chớ không thì dân nghèo sẽ chết trước hết, rồi từ từ mới đến người giàu và cán bộ, đảng viên khệnh khạng mua vé Air France hạng tối danh dự bỏ nước ra đi sang định cư tại Thuỵ Sĩ!
16. Tham lam: Mặc dù lòng tham là bản tính chung Trời ban cho loài người không phân biệt chủng tộc, người Việt Nam đặc biệt tham hơn người khác vì đau khổ và thiếu thốn nhiều quá. Lòng tham này biểu hiện trong cách buôn bán lừa đảo, làm hàng giả và chặt đầu lột da, không phân biệt phải trái và không kể chi đến chuyện lưu nhân tình để ngày sau hảo tương kiến. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, người Việt gốc Hoa, tuy cũng tham lam chớ chẳng phải là không, trong buôn bán vẫn tỏ ra thiệt thà và giữ gìn chữ tín hơn là người Việt chính tông của mình. Cộng Sản, tuy tự xưng mình là vì giai cấp vô sản mà chiến đấu, lại đặc biệt bóc lột đám dân vô sản cô thế và xô đẩy con người vào chỗ tham lam vô cùng, vô tận. Cứ đi về Việt Nam du lịch một vòng thì biết liền: Bà con, họ hàng gì mà cho tiền ít thì hờn giận, nói xỏ, nói xiêng; địa phương thanh lịch gì mà qua cầu khỉ cũng phải trả tiền; khách sạn tối tân cỡ nào mà giá lại đắt hơn cả bên Mỹ; “núm ruột ngàn dặm” gì mà hễ đi thăm thú nơi đâu thì cũng bị đồng bào ruột thịt chặt tiền gấp đôi… Ai cũng ngậm ngùi khi thấy cảnh hoàng cung và các lăng tẫm tại cố đô Huế tiêu điều, hoang phế mặc dầu đây là một trong các điểm du lịch hái ra tiền nhiều nhứt nước. Ai có ngờ đâu rằng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã cấp cho nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam hằng triệu Mỹ kim để trùng tu di tích này, nhưng họ cứ để vậy, một phần vì tiền đó đã bị họ chia chác nhau ăn cả rồi, phần khác vì họ có thâm ý tạo cảnh tang thương đặng gợi lòng xúc cảm của du khách, mà chung quy cũng chỉ là để moi tiền thêm mà thôi!
17. Không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc: Người Việt Nam tỏ ra rất thích nghi thức và kiểu cách, nhưng lại không chịu tuân thủ một nguyên tắc nhứt định nào làm chuẩn cả. Từ lễ cúng ông bà ngày Tết cho tới lễ cúng thần hoàng hay lễ hỏi, lễ cưới… mỗi miền đều theo một nghi thức riêng, không ai chịu ai là chuẩn mực. Rồi cứ thế tam sao thất bổn, đến đời nay mỗi khi có lễ lạc gì thì mạnh ai nấy làm, mới nhìn thì cũng na ná như nhau, lại gần mới biết là không nơi nào hành lễ giống như nơi nào cả. Theo một bài viết của cựu Tướng Ngô Quang Trưởng, hồi tháng Ba năm 1975, các đơn vị thuộc Vùng I Chiến Thuật đã phải rút bỏ Huế chỉ vì phải tuân thủ nguyên tắc thi hành trước, khiếu nại sauọ của Quân Ðội, trong khi đó vị tổng tư lệnh là Tổng Thống Thiệu thì lại không tuân giữ nguyên tắc trước sau như một khi ban lệnh: chiều thì lệnh phải giữ Huế, sáng thì lệnh phải bỏ Huế, làm cho lòng quân rối loạn dẫn tới chuyện mất Vùng I rồi mất nước luôn. (21) Cộng Sản cũng vậy, đã có lệnh của trung ương rồi, nhưng các tỉnh ủy vẫn tuỳ tiện ra phản lệnh hoặc ra thêm lệnh khác, nhứt là lúc cần đánh thêm một đợt thuế nữa vào những nhà đầu tư ngoại quốc lớ ngớ tới làm ăn tại Việt Nam. Còn chuyện không tuân thủ giờ giấc thì ai cũng biết là người mình chẳng hề có khái niệm nào đứng đắn về thì giờ, vì thế mới có thứ giờ cao su. Cứ chịu khó đi dự một phiên họp cộng đồng hay đi ăn một đám cưới nào thì quý vị đủ biết. Giờ hành lễ trên giấy tờ là 9 giờ sáng hay 5 giờ chiều thì cứ y như rằng là phải đợi mãi đến 11 giờ trưa hay 7 giờ tối mới nói tới chuyện khai mạc được, rồi rề rà, ê a mãi tới quá ngọ hay tuất gì đó (9 giờ tối) mới thực sự đi vào trọng tâm buổi lễ. Ðiều có vẻ khó hiểu là hầu hết các quan khách Việt Nam này bình thường, khi đi làm sở Mỹ để lãnh lương, thì lại rất hiếm khi thấy có ai dám thử mạo hiểm dỡn mặt supervisor đi làm trễ giờ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét