Tác giả Bill Hayton. Nguồn ảnh: admu.edu.ph
|
Tuy nhiên dù trải qua 20 năm đàm phán, hai bên vẫn chưa thể tìm ra thỏa thuận về các biện pháp cụ thể để kiểm soát các hoạt động ở Biển Đông. Tóm gọn là Trung Quốc sẽ không đồng ý với bất cứ điều gì hạn chế sự tự do hành động của họ và chẳng có ý nghĩa gì để ASEAN đồng ý với bất cứ điều gì không hạn chế sự tự do hành động của Trung Quốc. Vì vậy, có ba kết quả có thể có cho các cuộc đàm phán đang diễn ra: gãy đổ, dẫn đến một mảnh giấy vô nghĩa, hoặc kéo dài mãi—cấp khách sạn sang trọng của Đông Nam Á cho các nước rất cần tới. Điều tốt nhất có thể nói cho quá trình này, diễn đạt lại câu nói của Winston Churchill, là “đấu mồm tốt hơn đấu súng” (jaw-jaw is better than war-war).
Bài viết này cũng không khai phá sâu Sáng kiến Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ 21 của Trung Quốc. Cho đến nay, ít nhất đối với Đông Nam Á, dường như là một ví dụ khác về đấu võ mồm. Từ khi Chủ tịch Tập Cận Bình công bố sáng kiến này đến nay đã gần 2 năm và điều duy nhất thấy được tới giờ này vẫn là nhiều trợ cấp cho các khách sạn sang trọng: một vài hội nghị và tiệc chiêu đãi nhưng chẳng có đầu tư bất cứ nơi nào bên ngoài Trung Quốc, dù chỉ một nhân dân tệ. Sáng kiến cụ thể duy nhất hiện lên trong đề mục này là việc ký kết các thư bày tỏ ý định giữa cơ quan quản lý Cảng Klang trước đây đầy rẫy tham nhũng của Malaysia và 5 cảng Trung Quốc. Dù chắc chắn rằng hầu hết các nước ASEAN hết sức cần đầu tư cơ sở hạ tầng, nhưng vẫn chưa rõ rằng Con đường Tơ lụa trên biển sẽ cung cấp điều đó không.
Chừng nào ASEAN còn xem các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông là mối đe dọa thì các nước thành viên vẫn có khả năng xử sự thận trọng với những sáng kiến như thế này. Năm 2014 Trung Quốc đã đề xuất đưa năm 2015 thành năm của Hợp tác về biển của Trung Quốc-ASEAN, và tháng 3 năm [Hợp tác] đã được chính thức ra mắt bên lề Diễn Đàn Bác Ngao (Boao Forum). Kể từ đó đến nay, chỉ toàn im lặng. Quỹ Hợp tác Biển Trung Quốc-ASEAN đã được công bố rất đình đám tại hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN lần thứ 14 vào tháng 11 năm 2011 với một ngân sách $500 triệu nhưng dường như chưa giải ngân được bất kỳ khoản tiền đáng kể nào bên ngoài Trung Quốc. Quan hệ Đối tác biển Trung Quốc – ASEAN đã được Thủ tướng Ôn Gia Bảo đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc – ASEAN lần thứ 15, trong năm sau. Một lần nữa, không có gì từ đó ra cả. ASEAN đã từ chối tham gia; không hợp tác.
Thay vào đó, bài viết này tập trung vào việc phân tích làm thế nào mà các sự kiện năm ngoái — đặc biệt là phản ứng quốc tế đối với việc Trung Quốc xây dựng 7 đảo nhân tạo và việc Tòa Trọng tài Thường trực bắt đầu tiến trình xét xử — đã tạo ra một cơ hội cho hòa bình ở Biển Đông. Vâng, hòa bình.
Như thường được hiểu, có hai dạng tranh chấp ở Biển Đông. Có những tranh cãi nhỏ về việc nước nào cắm cờ trước tiên trên đảo hoặc rạn đá nào. Và có những tranh cãi to về việc liệu các nước có nên bám vào chế độ luật pháp quốc tế vốn đã tạo ra kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng nhất trong lịch sử thế giới trong hơn 70 năm qua hay không. Giải pháp cho cả hai đều nằm trong tầm tay, nếu các bên chọn cách với tới chúng.
Trước khi giải thích về việc làm thế nào, điều đáng lưu ý là mối quan ngại về những tác động rộng lớn hơn của tình hình Biển Đông đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ hiện có đang lan rộng. Ngay cả Liên minh Châu Âu —mặc dù có rất nhiều vấn đề khác phải giải quyết vào lúc này—cũng nêu lên quan ngại của mình. Tại Đối thoại Shangri-La năm 2015, đại diện cấp cao về đối ngoại, Federica Mogherini, nói tới một cách cụ thể một trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS):
Chúng ta cần phải duy trì một trật tự trên biển dựa trên luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển. Chúng ta không đi vào tính hợp pháp của các yêu sách cụ thể, nhưng với tư cách người Châu Âu chúng tôi kiên quyết đối với việc chúng phải được giải quyết NHƯ THẾ NÀO, đó là, theo cách hòa bình, không sử dụng hoặc đe dọa vũ lực.
Với Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, tất cả đều cùng quan ngại về những vấn đề này, không có gì ngạc nhiên khi Nhóm G7, cũng đã bàn tới chúng. Vào tháng 4 Nhóm công bố lần đầu tiên “Tuyên bố về an ninh trên biển”, trong đó có chỗ đề cập cụ thể về Biển Hoa Đông và Biển Đông và một phát biểu của nhóm như sau:
Quan ngại với bất kỳ hành động đơn phương nào, chẳng hạn như bồi tạo đất quy mô lớn, làm thay đổi nguyên trạng và làm tăng căng thẳng. Chúng tôi cực lực phản đối bất kỳ nỗ lực nào khẳng định các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ hoặc biển, thông qua việc sử dụng đe dọa, cưỡng ép hoặc vũ lực.
Tuy nhiên, tuyên bố không nêu tên bất kỳ nước nào.
Bộ trưởng Quốc phòng Úc, ông Kevin Andrews, cũng sử dụng Đối thoại Shangri-La để làm rõ việc chính phủ ông “phản đối bất kỳ hành động cưỡng chế hoặc đơn phương làm thay đổi hiện trạng ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, [kể cả] hoạt động bồi tạo đất quy mô lớn”. Và Canberra đã biểu lộ sự không hài lòng của mình qua việc mời quân đội Nhật Bản tham gia cuộc tập trận Talisman Sabre hàng năm Mỹ – Úc. Trong hai năm 2014 và 2015, Úc cũng đã tham gia cuộc tập trận Balikatan hàng năm Mỹ-Phi. Úc đang sắp chuyển giao cho Philippines hai tàu chở tăng đổ bộ.
Hoàn thành mạng tam giác, Philippines và Nhật Bản tổ chức tập trận hải quân chung lần đầu ở Biển Đông vào giữa tháng 5 năm 2015, sau một thỏa thuận giữa hai nước ký kết hồi tháng 1. Nhật Bản đang cung cấp 10 tàu tuần tra cho tuần duyên Philippines và cam kết nâng cấp năng lực giám sát và phòng thủ của Manila. Hồi tháng 6, hai nước đã chính thức hóa quan hệ đối tác chiến lược của họ.
Ấn Độ cũng đã can dự nhiều hơn. Tháng 9 năm 2014, tuyên bố chung Ấn-Mỹ, đặc biệt đã đề cập đến Biển Đông lần đầu tiên. Tổng thống Barack Obama và Thủ tướng Narendra Modi kêu gọi nên giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và biển, “phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận của luật pháp quốc tế, gồm cả UNCLOS.”
Ấn Độ đã phớt lờ phản đối của Trung Quốc và một lần nữa mời Nhật Bản tham gia cuộc tập trận hải quân Malabar hàng năm của mình với Hoa Kỳ trong tháng 10 năm 2015. Ấn Độ, Nhật Bản, và Hoa Kỳ cũng sẽ tổ chức các cuộc đối thoại ba bên ở cấp Bộ trưởng lần đầu bên lề Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á năm 2015. Cũng có những cuộc tập trận hải quân Ấn-Nhật riêng biệt.
Trên khắp khu vực, các thỏa thuận an ninh thường được mô tả như hệ thống ổ trục và nan hoa—với Hoa Kỳ trong vai trò ổ trục—cũng đang trở thành hệ thống đồng bạn (peer to peer). Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc, Việt Nam, và những nước khác đang từng bước xây dựng các quan hệ an ninh và ngoại giao mới trực tiếp với nhau. Có một vài ngoại lệ — chẳng hạn, chỉ có “I” (India: Ấn) trong BRICS lên tiếng— nhưng hầu như tất cả các nước lớn khác đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ trích việc Trung Quốc xây dựng đảo và đưa ra những lời kêu gọi cụ thể cho việc áp dụng các nguyên tắc của UNCLOS.
Điều này dẫn chúng ta đến The Hague, Hà Lan, và Cung Hòa bình—trụ sở của Tòa Trọng tài Thường trực—nơi các buổi tranh tụng đầu tiên trong vụ Philippines kiện Trung Quốc đã diễn ra vào đầu tháng 7 năm 2015. Trước hết, Toà phải quyết định xem có quyền phân xử vụ kiện hay không, thực ra đó là câu hỏi liệu Toà có nghĩ rằng các tranh chấp lãnh thổ cần được giải quyết trước khi Toà có thể đưa ra phán quyết về loại khu vực biển nào mà mỗi thể địa lý có thể yêu sách được, có dựa trên UNCLOS. Giả sử Tòa quyết định xét xử vụ án—và sẽ đáng ngạc nhiên nếu họ nói không—thì dự kiến có thể Philippines sẽ thắng hầu hết tất cả các điều khiếu kiện.
Trong 7 thể địa lý do Trung Quốc chiếm đóng ở Trường Sa, 4 chứa các mỏm đá vẫn còn ở trên mặt nước khi triều cao và 3 nằm chìm dưới nước trong trạng thái tự nhiên. Các thể địa lý này lẫn Bãi cạn Scarborough đều không thể phục vụ cho việc cư trú của con người. Do đó, nhiều nhất chúng chỉ tạo ra lãnh hải 12 hải lý, và tuyệt nhiên không có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) nào cả.
Vì vậy, rất có khả năng ảnh hưởng vụ kiện của Philippines sẽ cho tòa phán quyết đường chữ U, hoặc chín đoạn của Trung Quốc là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Nhiều người đã hỏi, “Thế thì đã sao? Trung Quốc sẽ chỉ việc phớt lờ phán quyết”. Nhưng hãy nghĩ về tình huống này.
Philippines cần khai thác nguồn dự trữ khí tự nhiên mới để thay mỏ Malampaya ngoài khơi bờ biển Palawan. Malampaya, do Shell điều hành trong khuôn khổ quan hệ đối tác với Chevron và Công ty dầu quốc gia Philippines (PNOC), hiện đang cung cấp khoảng một phần ba lượng điện sử dụng trên đảo Luzon bao gồm cả thủ đô Manila. Các bản tin trên truyền thông Philippines gợi cho thấy mỏ này sẽ cạn kiệt vào năm 2024.
Khảo sát địa chấn cho thấy câu trả lời nằm bên dưới Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) vốn nằm bên trong đường chín đoạn. Khảo sát do Forum Energy thực hiện dự phóng trữ lượng khí đốt ở đó là 8,8 nghìn tỷ feet khối—lớn hơn Malampaya. Từ kinh nghiệm phải mất 6 năm để phát triển dự án Malampaya gốc (từ lúc phát hiện trữ lượng khí đốt có kích cỡ thương mại vào năm 1995 cho đến khi bắt đầu dự án năm 2001), yêu cầu bắt đầu khoan và xây dựng đường ống dẫn là cấp bách nếu thủ đô Philippines muốn tránh tình trạng thiếu điện trong vòng ít hơn một thập kỷ tới. Tuy nhiên, hồi tháng 3, Forum Energy thông báo rằng chính phủ Philippines đã từ chối không cho phép khoan vì có phản đối từ phía Trung Quốc. Kể từ đó Forum Energy đã buộc phải rút việc niêm yết cổ phiếu khỏi Thị trường Chứng khoán London (London Stock Exchange).
Tuy nhiên, nếu như Toà Trọng tài Thường trực phán quyết rằng Trung Quốc không có yêu sách EEZ hợp pháp đối với các nguồn tài nguyên ở Bãi Cỏ Rong thì Philippines sẽ có thể lập luận rằng bất kỳ hoạt động khai thác khí đốt nào của Forum Energy, hoặc một công ty khác hoạt động theo giấy phép của Philippines, là hoàn toàn hợp pháp. Nếu Trung Quốc cố tìm cách gây cản trở hoạt động hợp pháp như vậy thì sẽ dễ dàng cho các nhà phê bình quy hành động của họ là vi phạm luật pháp quốc tế. Đây sẽ là cơ hội hoàn hảo để Hoa Kỳ, nếu muốn, vẽ một lằn ranh trên biển.
Sẽ có vấn đề cần làm rõ liên quan tới phạm vi địa lý trong các cam kết của Hoa Kỳ đối với việc bảo vệ Philippines theo Hiệp ước tương trợ Quốc phòng Mỹ-Philippines, nhưng vì Điều V của Hiệp ước có nói tới “lực lượng vũ trang, tàu hay máy bay công cộng ở Thái Bình Dương”, nên không khó để các luật sư của chính phủ tranh luận rằng nó bao hàm cả Biển Đông. Đây cũng có thể là cơ hội khi các nước khác cùng chọn cách nói lên sự ủng hộ trật tự trên biển hiện có đi tới việc bảo vệ UNCLOS cũng như tăng thêm sự ủng hộ về ngoại giao và về các mặt khác đối với những nỗ lực của Hoa Kỳ và Philippines. Đây sẽ là thời điểm nguy hiểm — Trung Quốc và Hoa Kỳ, và có khả năng nhiều nước khác, có thể đối đầu trực diện nhau quanh Bãi Cỏ Rong. Nhưng vào lúc này, Trung Quốc sẽ có thể phải do dự. Họ khó có khả năng an lành thoát ra khỏi một cuộc đối đầu như vậy.
Câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc có sẵn sàng đánh liều về những hậu quả của cuộc đối đầu đó, vốn có thể xảy ra chỉ trong hai năm nữa, hay bây giờ họ có thể thấy đuợc những gì sắp xảy ra và bắt đầu thực hiện các bước để ngăn chặn truớc. Về cốt lõi câu hỏi là như thế này: lãnh đạo chính trị của Trung Quốc có coi lợi ích của họ ở Biển Đông là quan trọng đến mức đáng để hy sinh các quan hệ quốc tế khác của họ hay không? Nếu không thì có thể lợi ích trung tâm của đảng-nhà nước Trung Quốc như một tổng thể vuợt trội hơn lợi ích của các cơ quan nhà nước khác nhau—quân đội, cảnh sát biển, các công ty dầu, các nhóm vận động hành lang nghề cá, và các tỉnh ven biển— với các chương trình hành động quan liêu để vuơn lên của chính họ hay không?
Nguyên nhân gốc rễ của những hành động của các bộ phận này ở Biển Đông là phiên bản lịch sử vốn đã trở thành chính thống trong các trường học và các học viện Đảng Cộng sản Trung Quốc, theo đó Biển Đông đã thuộc thẩm quyền của Trung Quốc “từ thời xa xưa.” Tôi cho rằng có quá nhiều bài phân tích về các tranh chấp này dành sự chú ý quá ít cho mức độ nghiêm trọng mà Trung Quốc đặt để cho yêu sách lịch sử của họ. Tôi đã lập luận ở những nơi khác rằng phiên bản lịch sử này dựa trên việc đọc sai bằng chứng, giải thích sai, và thậm chí dịch sai. Tuy nhiên, đó lại là một yếu tố thúc đẩy cốt lõi đằng sau các hành động của Trung Quốc trên biển. Nó đáng được chú ý nhiều hơn nữa.
Phiên bản lịch sử bị bóp mép này nằm đằng sau nỗ lực gần đây nhất của Trung Quốc mở rộng kiểm soát lãnh thổ ở Biển Đông: tại cụm bãi Luconia, khoảng 65 hải lý ngoài khơi bờ biển Borneo. Đầu tháng 6 năm 2015 Shahidan Kassim, Bộ trưởng phụ trách cảnh sát biển Malaysia, đã đăng trên Facebook các bức ảnh từ một chuyến bay kiểm tra trên các bãi ngầm và, trong một cuộc họp báo tại Sân bay Miri ở gần Bang Sarawak, cho thấy một tàu cảnh sát biển biển Trung Quốc đã bỏ neo đậu tại cụm bãi Luconia kể từ tháng 8 năm 2013.
Gốc gác của chuyến Trung Quốc đi tới rạn đá này là kỳ quái. Yêu sách ban đầu của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và các rạn đá gần đó nảy sinh từ cuộc họp của một ủy ban chính phủ nước Trung Hoa Dân Quốc hồi năm 1935. Không có quan chức Trung Quốc nào đã từng tới quần đảo Trường Sa vào thời điểm đó, do đó, Ủy ban Thẩm tra Bản đồ Đẩt và Biển (Thuỷ lục địa đồ thẩm tra uỷ viên hội) chỉ đơn giản là lấy các bản đồ của Anh hiện có và dịch hay phiên âm tên sang tiếng Trung. Luconia không phải là một tên Trung Quốc, nó là một từ cũ chỉ Luzon.
Năm 1935, Uỷ ban Thẩm tra chỉ việc phiên âm tên tiếng Anh Luconia thành Lú kāng ní yǎ tān [盧康尼亞 灘: lô khang ni á than] – trong đó tan (than) là từ Tiếng Trung để chỉ “bãi cát”. Mãi cho đến năm 1947 các quan chức Trung Hoa Dân quốc mới quyết định cho các thể địa lý này mang tên “Trung Quốc” hơn. Họ đã chọn Bei-kang Ansha [北 康 暗 沙: Bắc Khang Ám Sa] cho phần phía Bắc và Nan-kang Ansha [南康 暗 沙: Nam Khang Ám Sa] cho phần phía nam của nhóm bãi ngầm này. Kang [康: khang] theo nghĩa đen có nghĩa là “mạnh khỏe” nhưng có nhiều khả năng rằng nó chỉ đơn giản là cách viết tắt của các chữ phiên âm trước đó. Từ ansha (ám sa: nghĩa đen là “cát ngầm”) dường như được vay mượn từ ngôn ngữ văn học vào khoảng thời gian này để cho ra một từ tiếng Trung tương đương với từ tiếng Anh “shoal” —một thuật ngữ biển mơ hồ có gốc gác là một từ tiếng Anh cổ có nghĩa là “cạn”.
Khẳng định thuờng đuợc đưa ra rằng Trung Quốc là “nước đầu tiên đặt tên” các đảo ở Biển Đông chỉ đơn giản là không có bằng chứng hậu thuẫn. Tuy nhiên, ý thức về quyền làm chủ đối với quần đảo Trường Sa, dựa trên khẳng định cũng thiếu chứng cứ của Trung Quốc, đã trở thành mối nguy hiểm lớn nhất đối với hòa bình ở Biển Đông. Việc dạy sai kéo dài về yêu sách lịch sử của Trung Quốc chỉ tạo ra một cảm giác bất bình trong dân chúng vốn làm cho các tranh chấp càng trở nên rất khó giải quyết hơn.
Blog của Andrew Chubb, South Sea Conversations (Trò chuyện về Biển Đông), cho thấy một phần bối cảnh gần đây hơn về những nỗ lực của Trung Quốc để chiếm nhóm bãi Luconia. Nó dường như đuợc bắt đầu với chuyến đi đến các bãi ngầm này của nhóm ba nguời thuộc tạp chí Địa lý quốc gia Trung Quốc trên tàu của Malaysia trong tháng 4/5 năm 2009. Toàn bộ câu chuyện có thể đọc trên blog của Chubb, nhưng có vẻ là chuyến đi đó đã đặt vào những cái đầu ở Cục Quản lý Hải duơng quốc gia Trung Quốc một ý tưởng —thuyết phục họ cố yêu sách cụm bãi ngầm này như là lãnh thổ cực nam mới của đất nước.
Tàu cảnh sát biển Trung Quốc có vẻ đã đóng gần như thuờng trực tại cụm bãi Luconia và bãi ngầm James gần đó kể từ năm 2013. Việc làm này bổ sung thêm cho các chuyến ghé tạt vào ít thuờng xuyên hơn của các đội tàu hải quân Trung Quốc chạy ngang qua. Hiện cũng có các báo cáo về các tàu Trung Quốc quấy nhiễu các cuộc khảo sát dầu của Malaysia trong cùng khu vực. Hai vụ diễn ra vào giữa tháng 8 năm 2012 và những vụ khác sau đó.
Hành động của Trung Quốc đã khiến Malaysia phải điều chỉnh thái độ “giữ im lặng và tin tưởng vào mối quan hệ đặc biệt với Bắc Kinh” có trước đó. Cá nhân Thủ tướng Najib Razak trong thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 4/2015 đã chỉ trích việc Trung Quốc xây dựng đảo. Mặc dù các chỉ dấu ban đầu cho thấy, Malaysia cố gắng để lèo lái ASEAN khỏi cuộc đối đầu với Trung Quốc, nhưng dưới sự chủ trì của Malaysia, ASEAN đã kiên quyết trong việc phản đối những hành động gần đây của Trung Quốc. Các kết luận của hội nghị thượng đỉnh là thẳng thắn, lưu ý rằng việc Trung Quốc xây dựng đảo đã “gây mất lòng tin và sự tin cậy, có thể phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông”. Nhiều nguồn tin cũng cho biết rằng các quan chức Malaysia đã và đang hợp tác chặt chẽ hơn với các đối tác Việt Nam và Philippines, cả hai đang phát họa lập trường chung về tranh chấp biển bên trong ASEAN và trong tư cách là bộ ba đối mặt với Trung Quốc.
Có thể họ không nói công khai như thế, nhưng trong riêng tư, các nước này về cốt lõi, đã đạt tới một quan điểm chung về tranh chấp lãnh thổ. Họ trỏ vào lời lẽ trong DOC ASEAN-Trung Quốc năm 2002 nói về việc không “viện đến việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực” để cho thấy rằng họ không có kế hoạch tống xuất các bên yêu sách Đông Nam Á khác khỏi các thể đia lý đang chiếm đóng. Nói cách khác, trên thực tế (de facto), họ tôn trọng tính hợp pháp của việc chiếm đóng các đảo và rạn đá hiện có. Có thể họ chưa chuẩn bị để đưa ra việc công nhận chính thức theo luật pháp (de jure) việc chiếm đóng đó, nhưng rõ ràng là, ít ra trong nội bộ ASEAN, tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa hầu như không thành vấn đề.
Cách hiểu biết theo thực tế (de facto) như thế này có thể mở rộng tới Trung Quốc không?
Tất cả những gì cần cho hòa bình ở Biển Đông là tất cả các bên tranh chấp công nhận việc chiếm đóng của bên khác và tuyên bố dứt khoát rằng họ tán đồng với tinh thần và câu chữ của UNCLOS. Tất nhiên, sẽ có mất nhưng cũng có được. Việt Nam sẽ bị mất quần đảo Hoàng Sa, nhưng sẽ được tính hợp pháp ở quần đảo Trường Sa và với sự cáo chung của đường chín đoạn, sẽ có thể khai thác dầu khí và cá mà không có đối đầu. Trung Quốc sẽ mất đường chín đoạn, nhưng sẽ được tính hợp pháp ở quần đảo Hoàng Sa, trên các thể địa lý chiếm đuợc ở quần đảo Trường Sa, và quan trọng hơn, làm giảm đáng kể khả năng đối đầu với Hoa Kỳ. Philippines sẽ mất chủ quyền đối với nhiều phần của nhóm đảo Kalayaan—khu vực rộng lớn của quần đảo Trường Sa mà họ yêu sách—nhưng không chiếm giữ, nhưng sẽ được Bãi Cỏ Rong và EEZ không có tranh chấp dọc theo bờ biển của mình. Mọi thứ đã đâu vào đó; giờ chỉ còn tuỳ quyết định của Trung Quốc.
Tác giả: Bill Hayton
Dịch giả: Huỳnh Phan
Tháng 9/2015
(Ba Sàm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét