Pages

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

Chiến tranh Việt nam và bất ổn tại Biển Đông


Ts Nguyễn Ngọc Tấn
                                                                
                                                                         Vòng cung bất ổn Đông Á
 
Chiến tranh Việt nam (CTVN) và những bất ổn tại Biển Đông hiện nay có một mối liên hệ nhân quả. Vì thế, nếu không biết được những sự thật về CTVN mà các nhà làm chính sách Hoa kỳ đã và vẫn còn đang cố tình che dấu, sẽ không thể nào có được nhận định đầy đủ và chính xác về nguyên nhân, diễn biến cũng như dự liệu giải pháp cho những tranh chấp hiện nay giữa Trung quốc và các quốc gia trong Khu vực và cả với một số quốc gia khác trong vành đai Thái Bình Dương.

Nhiều người thắc mắc là tại sao, trong khi Hoa kỳ vẫn chiếm ưu thế về sức mạnh quân sự, thì Tiến sĩ (Ts) Henry Kissinger lại giàn xếp chấm dứt cuộc chiến bằng giải pháp gạt Hiệp định Ba lê qua một bên để cho Hà nội chiếm Sài gòn bằng vũ lực? Theo Ts Kissinger, thì sau khi đã rút khỏi Việt nam người Mỹ không muốn cuộc chiến “quốc-cộng” bùng nổ trở lại, làm ảnh hưởng đến nỗ lực của Hoa kỳ trong cuộc chiến sinh tử với Liên xô. Tuy nhiên khi nhìn lại trật tự hiện nay đang diễn ra tại Biển Đông, thì quyết định đó không những thể hiện một viễn kiến mà còn là một sự chọn lựa chiến lược rất hữu hiệu của các nhà làm chính sách Hoa kỳ, một siêu cường đang mang trọng trách lãnh đạo và bảo vệ nền hoà bình thế giới hiện nay. 

Để hiểu được những tính toán sâu xa của nước cờ độc đáo này, chúng ta cần phải lần lượt trả lời những câu hỏi sau đây: Có thật là Hoa kỳ đã bị đánh bại ở Việt nam? Lý do nào Hoa kỳ lại bỏ Nam Việt nam (NVN) để đi với Trung quốc? Hoa Kỳ có thể mượn tay cựu thù (Hà nội) để ngăn chận tham vọng bành trướng mà Trung quốc đang tiến hành ở Biển Đông hiện nay? Giải đáp thoả đáng những câu hỏi này có thể giúp chúng ta hình dung ra một giải pháp thích hợp cho cuộc tranh chấp, vốn nằm trong toan tính và sắp xếp của siêu cường Hoa kỳ để hình thành một thế quân bình mới trong vùng Tây Thái bình dương. Trong trật tự mới này, các nhà làm chính sách Hoa kỳ sẽ điều chỉnh lại quan hệ giữa Bắc kinh và Hà nội. Và mối quan tâm về dân chủ - nhân quyền hiện nay ở Trung quốc và Việt nam cũng sẽ phải thay đổi theo chiều hướng tiến lại gần với khuôn mẫu của quốc tế.

A- Có thật Hoa kỳ đã bị đánh bại ở Việt nam?
CTVN kết thúc khi quân đội Bắc Việt chiếm Dinh Độc Lập vào sáng ngày 30/4/1975. Tổng thống Dương văn Minh bị buộc phải tuyên bố đầu hàng trong khi đã chuẩn bị sẵn sàng để bàn giao chính quyền Sài gòn cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Thực tế này khiến mọi người hiểu lầm là Hoa Kỳ đã thất bại trong việc bảo vệ Nam Việt Nam (NVN). Nhất là khi nghe Thủ Tướng Phạm Văn Đồng bóp méo sự thật tuyên bố “Chúng ta đã đánh bại Hoa kỳ”. Thêm vào đó, truyền thông báo chí Hoa kỳ và Phương Tây đồng tình mỉa mai cuộc triệt thoái quân đội Mỹ khỏi Việt nam là một chương lịch sử nhục nhã chưa từng có của Hoa kỳ... Sự thật không phải vậy. Tất cả nằm trong sự sắp xếp bí mật mà Ts Henry Kissinger đã dặn dò Ông Lê đức Thọ: “This is a secret between you and me”.
 
Trong cuốn sách “CTVN - Một Nước Cờ Độc” xuất bản vào tháng 6/2011 tại Hoa kỳ, tôi dựa vào một tài liệu ngoại giao, “Memos for Kissinger”, đã được giải mật  để chứng minh lý thuyết về CTVN của tôi qua nội dung thương thảo giữa hai nhà ngoại giao này nhằm chấm dứt cuộc chiến giữa hai phe Việt nam. Thật ra bí mật này cũng được Ts Kissinger chia sẻ với Thủ tướng Chu ân Lai rằng Hoa kỳ sẽ không chấp nhận việc CTVN bùng nổ trở lại sau khi quân Mỹ rút chân khỏi Đông dương vì thế:“Chúng ta phải để cho Hà nội hoàn toàn làm chủ tình hình về quân sự một khi chúng tôi đã rút khỏi Việt nam và đã cách xa đó cả chục ngàn dặm.”
 
Giải pháp của Kissinger rất thực tế vì giữa Hà nội, Sài gòn và MTGPMN với nhau sẽ không bao giờ đi đến một thoả hiệp chính trị (a political compromise). Cho nên, nếu sau khi chính quyền Sài gòn bị bắt buộc phải chấp nhận một cuộc ngưng bắn bất lợi cho họ mà trong tay vẫn còn lợi khí quân sự, ai có thể bảo đảm Sài gòn không phát động chiến tranh trở lại? Tương tự, nếu sau khi ngưng bắn mà Hà nội muốn thâu tóm hết quyền lực, nhưng MTGPMN vẫn còn sức mạnh quân sự đáng kể, thì việc chiến tranh bộc phát trở lại cũng là điều khó tránh khỏi.
 
Dự kiến này của Ts Kissinger được thực hiện qua hai giải pháp“Khoảng thời gian cần thiết” (Decent interval) và “Việt nam hóa chiến tranh” (Vietnamisation) nhằm làm chính quyền Sài gòn suy yếu về mọi mặt và giúp Hà nội chiếm ưu thế quân sự (150000 quân Bắc Việt được ở lại trong lãnh thổ VNCH sau khi ngưng bắn), rồi tiến vào Sài gòn với một sức mạnh vô địch. Trong tiến trình thực hiện “khoảng thời gian cần thiết” được tiên liệu là từ một năm rưỡi đến hai năm, tính từ khi ký kết Hiệp định Ba Lê đến ngày quân đội Bắc Việt tiến vào Sài gòn.
 
. Trong khoảng thời gian này, Hà nội cũng âm thầm làm suy yếu vai trò của MTGPMN, biến nó thành một tổ chức hữu danh vô thực trước khi bước vào trận đánh cuối cùng. Về mặt quốc phòng, chính quyền Sài gòn bị người Mỹ dùng “Việt nam hoá chiến tranh” dồn Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) vào cái thế “có súng mà không đạn, có máy bay xe tăng nhưng khộng có xăng nhớt”.

Về chính trị, thể theo yêu cầu của Hà nội, Kissinger đã sắp xếp để đưa lá bài Dương văn Minh vào vị trí có thể ra lệnh cho quân đội buông súng và để quân đội Bắc Việt tiến vào Sài gòn trong trật tự. Những cuộc gặp gỡ với các nhân vật MTGPMN do toà đại sứ Mỹ và CIA ở Sài gòn đã thực hiện với sự giúp đỡ của tình báo pháp từ đầu năm 1967 cũng là để chuẩn bị cho giải pháp này. “Điều khoản bầu cử một chính phủ liên hiệp” hoặc qui định “Hà nội không được dùng sức mạnh quân sự để lật đổ chính phủ Saì gòn” nằm trong Hiệp định Ba Lê 1973 dưới sự đạo diễn của Kissinger, chỉ là cái bánh vẽ nhằm khuyến dụ Sài gòn và MTGPMN cùng chấp nhận ký vào văn kiện đình chiến và giúp cho người Mỹ hợp thức hoá mục tiêu can thiệp vào Việt nam và đàng hoàng rửa tay lui binh về nước. Cuối cùng “Việt nam hoá chiến tranh” còn giúp người Mỹ chứng minh mình vô can trong việc sụp đổ của miền Nam vì mãi hai năm, sau khi người Mỹ đã rút khỏi Việt nam, Sài gòn mới sụp đổ. Do đó trách nhiệm bảo vệ NVN thuộc về quân dân cán chính của Nam Việt nam.

Trong “Hồi Ký Không Tên”, Lý Qúy Chung thuộc thành phần thứ Ba, là người trông đợi một chính phủ liên hiệp, nhưng sau 30 năm nhìn lại, đã phải kết luận rằng kết thúc cuộc chiến Nam Bắc bằng biến cố 30 tháng 4, 1975 là một giải pháp rất thực tế: “Hiệp định Ba Lê chỉ là giải pháp tình thế để tạm thời ngưng tiếng súng chứ không chấm dứt được cuộc xung đột và mang lại hoà bình thật sự, dù cho các điều khoản của hiệp định được đem ra áp dụng. Một chính phủ liên hiệp nếu được thành lập ở miền Nam (theo hiệp định) thì cũng sẽ là sự tiếp nối của cuộc xung đột dưới một hình thức mới, đầy hỗn loạn và bất ổn, có thể lại đổ máu và chết chóc.”

Rõ ràng là Hà nội chiếm Sài gòn bằng quân sự không phải là nhờ họ đã “đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào” mà là kết quả của mười ba lần thương thảo bí mật giữa Hoa kỳ và Bắc Việt trong hơn bốn năm trời (1969 - 1972), và trong bối cảnh Nixon và Mao đã bắt tay nhau cùng gây áp lực buộc Hà nội ký vào Hiệp định Ba lê, chấp nhận một nền hoà bình mà Hà nội dường như đã nhìn thấy là rồi ra sẽ đưa Việt nam rơi trở lại quĩ đạo ảnh hưởng của Trung quốc. Nhưng nếu không có chiến dịch không tập “Operation linebacker”, đánh bom Hà nội vào Giáng sinh 1972 trong suốt 72 tiếng đồng hồ của không lực Mỹ, thì chưa chắc phái đoàn Hà nội đã chịu trở lại bàn hội nghị Ba Lê và ký kết đình chiến. Việc Ông Lê đức Thọ đã từ chối nhận lãnh giải Nobel hoà bình có thể coi như là một hình thức phản đối hành động “cả vú lấp miệng em” của các cường quốc. Liên xô và Trung quốc không hề phản ứng khi thủ đô Hà nội bị dội bom bình địa. Tương tự, năm 1954, sau khi hiệp định Geneve được ký kết, Thủ tướng Phạm văn Đồng đã tố cáo là “Châu ân Lai đã đâm sau lưng Hà nội”.

Bằng chứng cũng cho thấy người Mỹ không đến Việt nam để tìm một chiến thắng về quân sự nhằm bảo vệ chính quyền Sài gòn. Trái lại, họ đưa quân vào Việt nam để tìm kiếm và đã đạt được một chiến thắng thuần túy về ngoại giao, nhằm thiết lập một thế quân bình mới về địa chính trị ở trong vùng (regional geo-political balance), trong đó Trung quốc sẽ đóng vai trò chính yếu kềm chế ảnh hưởng của Nga tại Đông Nam Á với chính quyền thân Liên xô tại Hà nội. Và khi chấp nhận bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Trung quốc được gia nhập vào liên minh với các nước dân chủ kỹ nghệ phương Tây trong mục tiêu bao vây và cô lập Liên xô. Đổi lại Mỹ giúp Bắc kinh canh tân hoá nước Tầu.

Trong cái trật tự mới này, Nam Việt Nam không đóng một vai trò gì. Vì thế trong tiến trình can thiệp, Hoa kỳ đã tước đi mọi phương tiện và cơ hội của quân dân NVN để họ có thể tự bảo vệ sự hiện hữu của mình. Nhưng nếu Tổng thống Nixon không đe doạ “chặt đầu” Tổng thống Nguyễn văn Thiệu thì chưa chắc gì Ngoại trưởng Trần văn Lắm “đã nhận được lệnh phải ký hiệp ước Ba Lê bằng mọi giá.” Tóm lại, người Mỹ đã can thiệp vào Việt nam và đạt được những gì họ muốn, rồi giàn xếp để cộng sản Bắc việt chiếm Sài gòn bằng quân sự và phủi tay chấm dứt cuộc can thiệp, rời Việt nam một cách đàng hoàng trong khuôn khổ một thỏa thuận ngoại giao, “triệt thoái trong danh dự!”

Nhưng theo tôi, thì ngoài cái bí mật mà Ts Kissinger trên văn bản ngoại giao đã cam kết với Ông Lê đức Thọ và Thủ tướng Châu ân Lai, Ts Kissinger còn che dấu một cái bí mật của riêng mình. Đó là việc đối phó với dư luận của dân chúng Hoa kỳ và trên toàn thế giới về vấn nạn đạo đức của việc “loại bỏ đồng minh để đi với kẻ thù” (scuttling an ally to appease an enemy). Nói rõ hơn, đó là việc loại bỏ chính quyền đồng minh Sài gòn, một chính quyền dân chủ hiến định và đã được sự công nhận của hơn 80 quốc gia, để đưa đảng cộng sản Việt nam lên nắm chính quyền. Chính Ts Kissinger cũng công nhận đây là vấn đề vô cùng khó khăn vì sẽ bị chỉ trích là“insufficiently moral” (thiếu đạo đức). Thật ra hai giải pháp “Decent interval” và “Vietnamisation” của Ông đã giúp chính phủ của nội các Nixon tránh được tội danh “phản bội đồng minh” và “không tôn trọng những cam kết trong Hiệp Định Ba Lê” và tất cả là nhờ phong trào chống chiến tranh mà Kissinger dựng lên (to confine the dissident of the protest movement to Indochina).

Trong cuốn sách “A Revolutionary View of U.S. Foreign Policy” xuất bản vào tháng Sáu vừa qua tại Hoa kỳ, tôi đã chứng minh phong trào phản chiến không phải là tự phát mà đã được dựng lên để “lobby” khẩu hiệu “We are on the wrong side” nhằm áp lực quốc hội cắt hết viện trợ cho chế độ Sài gòn, một “chính quyền bù nhìn độc tài thối nát”, khiến chính quyền Nixon không còn sự chọn lựa nào khác phải rút khỏi Việt nam. Đồng thời Hà nội sẽ phải thay chính quyền Nixon đứng ra gánh hết trách nhiệm về việc phá vỡ cam kết trong Hiệp định Ba Lê, “lật đổ chính quyền Sài gòn bằng quân sự.” Nhờ đó nội các của Tổng thống Nixon đã làm được điều mà ba nội các tiền nhiệm của các Tổng thống Eisenhower, Kennedy và Johnson không làm được.
 
Ts Kissinger sau này giải thích rằng “giải quyết vấn đề Sài gòn” là bước đi căn bản của chiến lược cầm chân và đánh bại Liên xô trên toàn cầu. Ngày 7 tháng 5, 1999  trên tờ Australian Financial Review, Ts Kissinger tiết lộ: “Chúng tôi coi việc can thiệp vào Việt nam chỉ là một trở ngại tạm thời. Vì sau khi đã khắc phục được nó rồi, Việt nam (thống nhất và nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung quốc) sẽ giúp đưa Hoa kỳ đứng vào thế thượng phong trong cuộc đối đầu với Liên xô, khi mà Liên xô đã bị cô lập về địa chính trị và nền kinh tế trì trệ của Nga cũng đã biến những giáo điều cộng sản trống rỗng của Điện Cẩm linh trở thành vô dụng.”  Ông cũng xác định việc Tổng thống L. Johnson điều động một lực lượng chiến đấu lên đến nửa triệu quân vào Việt nam không phải để leo thang chiến tranh mà là một đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu “ngoại giao trên thế mạnh” ở Đông dương. Cho nên Kissinger mới mô tả “CTVN là cuộc chiến tranh đầu tiên của Hoa kỳ không mang một mục tiêu quân sự.” Tóm lại, Hoa kỳ đã không đến Việt nam để tìm một chiến thắng quân sự, nhưng họ đã giành được thắng lợi trên bàn hội nghị tại Ba lê. Nói Hoa kỳ bị đánh bại ở Việt nam là hoàn toàn vô căn cứ.

B- Vì sao Hoa kỳ bỏ Nam Việt nam để chọn Trung quốc?
Thật ra những giải pháp mang tính cách chiến thuật của Ts Kissinger đối phó với “vấn đề Sài gòn” không phải là những yếu tố hoàn toàn bí mật mà đã được kiến trúc trước khi Hoa kỳ chính thức can thiệp vào Việt nam. Vào tháng 4 năm 1955 khi còn là một giáo sư tại Đại học Harvard, Ts Kissinger đã viết trên tạp chí Foreign Affairs về chiến lược dài hạn cầm chân và đánh bại Liên xô gồm sáu giai đoạn. “Đầu tiên là rút ra khỏi Việt nam trong danh dự; thứ hai là tập trung các phong trào chống đối chiến tranh vào Đông dương; thứ ba là nhân danh bảo vệ hoà bình thế giới để chứng minh cho dân chúng Mỹ thấy rằng trong khi đeo đuổi cuộc chiến chống cộng sản Liên xô, chính phủ Mỹ bảo đảm bằng mọi giá, tránh mọi nguy hiểm có thể đưa đến thế chiến; thứ tư là mở rộng mặt trận ngoại giao để đưa Trung quốc gia nhập vào liên minh quốc tế.” Nhưng lúc đó vì không hiểu được những toan tính tinh vi của sách lược này nên giới khoa bảng nghĩ là nó chỉ có giá trị hàn lâm nên ít ai để ý tới. Vả lại vào lúc đó ảnh hưởng phe chủ trương hoà hoãn với Liên xô đang lên, nên người Mỹ cũng chưa thể can thiệp sâu đậm vào chính trường Đông dương.
 
Chính sách đối với Nam Việt nam cũng được Ts Kissinger đưa ra trong sách lược toàn cầu này. Từ năm 1947 việc đặt lục điạ Á Châu ra khỏi vòng đai phòng thủ của chính sách “ngăn chận cộng sản Liên xô” đã được Bộ Ngoại giao và tổng tham mưu liên quân Hoa kỳ quyết định rồi. Cho nên lý do Kissinger đưa ra để bỏ Việt nam chỉ có tính cách trấn an dư luận: “Nam Việt nam cần phải có thời gian dài để phát triển các định chế dân chủ và những chương trình phát triển xã hội nhằm thu phục lòng dân. Đó là một đất nước bị chia đôi vừa mới được độc lập, xã hội còn đầy rẫy những dấu vết của của một thế kỷ bị thực dân cai trị, và chịu một cuộc nội chiến dằng dai. Cái mục tiêu chiến thuật này hoàn toàn vượt qúa sức chịu đựng tâm lý của dân chúng Mỹ.” Thật ra đây chỉ là một lập luận trong khuôn khổ trấn an dư luận và tranh cãi về chính trị để hỗ trợ cho một chính sách về Đông dương đã được định sẵn tại hội nghị Geneva của phe chính trị thực dụng.
 
Tuy đại đa số người Mỹ rất lý tưởng, nhưng trong thời gian CTVN và Chiến Tranh Lạnh (CW), phe chủ trương hoà hoãn với Trung quốc đều là những chính trị gia theo chủ nghĩa thực tế (pragmatism). Mọi tính toán của họ đều dưạ trên nguyên tắc so sánh giữa “lời và lỗ”. Cho nên, khi cân nhắc thiệt hơn, người Mỹ thấy rằng đi với Trung quốc được lợi cả đôi đàng. Trước tiên, hàng năm Hoa kỳ phải tiêu tốn hơn ba tỉ dollars và hy sinh không dưới mười ngàn thanh niên Mỹ để giữ cho quân cờ “domino” NVN đứng vững. Ngoài ra, cái khoảng thời gian duy trì một cuộc chiến dằng dai để phát triển các định chế dân chủ và kinh tế ở NVN sẽ đòi hỏi nhiều phí tổn khác và vượt quá sức chịu đựng tâm lý của dân chúng Mỹ.
 
Trong khi đó, dưới cái nhìn nghi ngại của các nhà lãnh đạo Bắc kinh, sự hiện diện của quân đội Mỹ với các căn cứ khổng lồ tại NVN, được xem là mối đe dọa trực tiếp đến nền an ninh của Trung quốc. Điều đó có thể khiến cho Bắc kinh tạm gác lại vấn đề tranh chấp biên giới để bắt tay với Moscow chống lại Hoa kỳ và khối Tây Âu. Việc khăng khăng giữ NVN sẽ thúc đẩy sự thành hình của liên minh Nga-Trung và khơi dậy một cuộc chạy đua vũ trang mới. Đó mới là nguy cơ trực tiếp đe doạ nền hoà bình thế giới và an ninh quốc gia của Hoa kỳ. Và trong trường hợp đó, Hoa kỳ thực sự gặp bất lợi khi quân đội Mỹ phải trải mỏng (overextension) cho nhiều “điểm nóng” cùng lúc trên phạm vi toàn cầu.
 
Như vậy, đối với các nhà làm chính sách Hoa kỳ, chủ trương dùng NVN làm con “domino” đầu tiên để ngăn chận Cộng sản Liên xô ở Đông Nam Á là một hạ sách vì với tốn phí khổng lồ mà nguy cơ chiến tranh không những không giảm đi trong khi mối đe doạ thì mỗi ngày một tăng thêm. Hoá ra việc bảo vệ chính quyền Sài gòn lại trở thành mối nguy cho cả thế giới mà như Tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon đã nhận định “Nếu lúc đó chúng ta chấp nhận sự chọn lựa này (giữ Sài gòn) và nếu Trung quốc bị bắt buộc phải rơi trở lại vào quỹ đạo của Liên xô, thì chắc là mối đe doạ hung hãn của Cộng sản Liên xô đối với Tây Âu ngày hôm nay có thể đã trở nên vô cùng nghiêm trọng.” Nói một cách thực tế và đứng trên quyền lợi người Mỹ mà xét, thì đấy cũng chính là mối đe doạ đến sự an-nguy tồn-vong của Hoa kỳ, vì một khi hệ thống kinh tế chỉ huy của Cộng sản bành trướng trên toàn cầu cũng có nghĩa là hệ thống kinh tế thị trường tự do sẽ bị bao vây và co rút lại. Ảnh hưởng của lối sống kiểu Mỹ trên thế giới, vì thế, ngày một bị thu hẹp và vị thế của Mỹ cũng bị lung lay.
 
Ngược lại, bỏ NVN để hoà hoãn với Trung quốc và dùng Trung quốc làm con “domino” đầu tiên và khống chế công cụ của Liên xô là Hà nội, Hoa kỳ được tất cả. Ngoài cái lợi trút bỏ được gánh nặng phí tổn để giữ NVN, người Mỹ còn mở toang được bức màn tre để bước vào một thị trường hứa hẹn với dân số cả tỷ người, một nền kinh tế đứng hàng thứ ba trên thế giới. Hoa kỳ đã đánh giá chính xác vai trò rất quan trọng của Trung quốc trong việc duy trì nền hoà bình thế giới và quảng bá niềm tin vào hệ thống kinh tế thị trường. Vì vậy, khi nhìn lại cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Hoa kỳ và Liên xô, Kissinger đã thừa nhận rằng “Nếu không có sự hợp tác của Trung quốc thì thế giới đã chẳng có được yên bình như ngày nay.”
 
Ngày đó, như phong trào phản chiến đã không ngừng rêu rao: “Đây là một cuộc chiến không thể thắng được”, nhiều người tin rằng Hoa kỳ đã thất bại và bằng mọi giá phải tìm cách rút chân khỏi vũng lầy Việt Nam. Nhưng kỳ thực, bắt tay với Trung quốc là một quyết sách chiến lược dài hạn của Hoa kỳ đã nhen nhúm từ đầu thập niên năm mươi trong thế kỷ trước, nhằm mục đích cuối cùng là đánh bại Liên xô. Và quyết định bỏ Nam Việt nam của Hoa kỳ chỉ là hệ luận của chọn lựa này. Nội các Nixon chỉ là một công cụ thừa hành.
 
Trật tự của thế giới sau Thế chiến thứ Hai gồm hai cực Hoa kỳ và Liên xô. Nền hoà bình của thế giới bị đe doạ vì tham vọng bành trướng của cộng sản Liên xô. Với hy vọng có thể đương đầu với Liên xô và duy trì hoà bình, các nhà làm chính sách Hoa kỳ đã dồn nỗ lực để tìm ra một sách lược hữu hiệu có thể đưa Hoa kỳ từ vị trí một đại cường trở thành một siêu cường lãnh đạo thế giới. Sau thế chiến, Hoa kỳ vượt lên ngang hàng Liên xô là nhờ sức mạnh nguyên tử và một nền kinh tế hiện đại. Theo Thủ tướng Lý quang Diệu, cán cân quân bình của trật tự thế giới lúc đó chủ yếu phụ thuộc vào hai đối thủ vượt trên tất cả, đó là Hoa Kỳ và Nga xô. Chính vì thế mà chính sách đối ngoại của Hoa kỳ trong thời hậu chiến đã tập trung tất cả vào Nga xô, quốc gia duy nhất có thể đối chọi với Hoa kỳ và can thiệp vào chính trị thế giới. Trong mắt người Mỹ, Nga xô là mối hiểm họa đối với hòa bình thế giới trong tương lai và cũng là quốc gia duy nhất có đủ khả năng tấn công Hoa kỳ.
 
Kể từ khi Mao trạch Đông thâu tóm giang sơn về một mối (1949), người Mỹ đã lưu tâm đến vai trò Trung quốc trên bàn cờ thế giới. Trong cuộc chiến tranh Cao ly, cho dù có thể dễ dàng đánh chiếm Bình Nhưỡng năm 1951, Hoa kỳ lãnh đạo liên quân đã quyết định lui về lại Nam vĩ tuyến 38, thậm chí còn bãi nhiệm Tướng McArthur vì lý do vị tướng này khăng khăng đòi tiến đánh vào Hoa Lục. Năm 1954, Hoa kỳ qua Hiệp định Geneve 1954 đã biến Đông dương thành một vùng trái độn theo yêu cầu của Mao. Hành động này rõ ràng nhằm làm giảm đi sự nghi ngại của Trung quốc đối với người Mỹ để (Trung quốc) yên tâm đối phó với kẻ thù tự nhiên (Nga xô) ở phương Bắc mà như Ts Kissinger ngày đó đã nhận định rằng Trung quốc và Liên xô là hai kẻ thù truyền thống, cho dù có xích lại gần nhau vì chung một ý thức hệ cộng sản, nhưng chẳng bao lâu sẽ lại đối đầu. Quả nhiên chỉ ba năm sau, năm 1960, xung đột biên giới Nga - Trung bùng nổ. Biến cố này đã giúp phe thân Trung quốc dần dần lấy lại ảnh hưởng vì phe thân Liên xô bắt đầu lui vào bong tối khi TT Kennedy bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.   
 
Sự kiện Hoa kỳ bỏ Việt nam để đi với Trung quốc là một chọn lựa chiến lược đã được manh nha từ đầu thập niên năm mươi bởi các nhà làm chính sách Hoa kỳ theo trường phái “Thực dụng”. Vì thế, kết quả về quân sự của cuộc chiến “quốc - cộng” không có ý nghĩa gì trong biến cố 30-4-1975, có chăng chỉ là “hợp thức hoá” một việc đã rồi. Nhờ có phong trào phản chiến mà nội các Nixon không bị chỉ trích là “thiếu đạo đức”, nhưng Hà nội lại bị dư luận Mỹ và thế giới lên án là kẻ vi phạm luật chơi bất chấp mọi cam kết quốc tế.

C- Liệu Hoa kỳ có thể dùng kẻ cựu thù để giải quyết các bất ổn tại Biển Đông?

Theo sử gia Mỹ Robert Kaplan, “các nhà lãnh đạo Việt nam hiện nay lo ngại một khi đổi mới chính trị, sẽ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng của NVN trước 1975, một tổ chức cai trị bị suy yếu, đất nước rơi vào hỗn loạn và dẫn đến nguy cơ sụp đổ của chế độ. Vì thế Hà nội sẽ tiếp tục cai trị bằng một nhà nước chuyên chế, gia tăng chi phí quốc phòng đồng thời theo đuổi một nền kinh tế thị trường có định hướng, để bảo vệ độc lập quốc gia trước sự đe doạ của Trung quốc. Dựa vào truyền thống chống xâm lược từ phương Bắc và cái mô thức cai trị này, Hà nội cho rằng họ có khả năng khơi dậy lòng yêu nước của toàn dân để đối phó hoạ ngoại xâm. Có thể họ sẽ tìm sự hỗ trợ của Hoa kỳ một khi tình hình trở nên quá nghiêm trọng. Tuy nhiên, tương tự quan điểm của Ấn độ, Hà nội còn ngần ngại với ý tưởng ký kết một hiệp ước an ninh với Hoa kỳ.”

Kaplan kết luận: “Trong mọi tình huống, có thể nói rằng số phận của Việt nam và khả năng thoát vòng kềm toả của Trung quốc trong giai đoạn này, cũng chẳng khác gì thời kỳ chiến tranh vào thế kỷ trước, sẽ phải tùy thuộc vào chính sách duy trì ảnh hưởng của Hoa kỳ ở khu vực Thái bình dương và trên toàn thế giới trong thế kỷ 21 này.”

Như vậy, theo Kaplan, chính sách của Hoa kỳ dùng nhà nước chuyên chế Hà nội để đối phó với những bất ổn do tham vọng đất đai của Trung quốc tại Biển Đông hiện nay chỉ là những chính sách tại chỗ (policies on the ground or ad-hoc policies), một loại tùy cơ ứng biến. Tuy nhiên có đầy đủ bằng chứng cho thấy đây là một trật tự đã được dự liệu ngay từ khi Hoa kỳ can thiệp vào cuộc chiến ở Việt nam. Chính xác là, theo hồi ký của Ngoại trưởng Trần quang Cơ, chỉ 5 ngày, sau khi Nam Việt nam sụp đổ, vào ngày 5 tháng 5, 1975, Ts Kissinger đã bắt đầu sắp xếp lại để quân bình những sức mạnh ở Đông Nam Á: “Campuchia và Lào trở thành chư hầu của Hà nội. Còn Thái Lan và Indonesia tự động liên minh với Việt nam. Trong khi đó Trung quốc sẽ kềm chế không để cho Việt nam có hành động quyết liệt nào ở Đông Nam Á.”

Những bất ổn hiện nay tại Biển Đông do Trung quốc gây ra chính là hậu quả của sự chọn lựa của Hoa kỳ trong CTVN, giúp Bắc kinh hiện đại hoá nước Tầu. Nhiều người cho đây là “một chính sách tồi tệ”. Tuy nhiên khi đứng vào vị trí lãnh đạo thế giới mà nhìn vào trật tự thế giới hôm nay, chưa thấy có chính sách nào khác có thể bảo đảm một thế giới tương đối yên bình và ổn định và có lợi cho Hoa kỳ như hiện nay. Nhất là các chiến lược gia Hoa kỳ theo chủ nghĩa thực dụng hiểu hơn ai hết cái quy luật phát triển của sức mạnh trong Bang Giao Quốc Tế (BGQT). Chẳng hạn như Âu châu, sau khi hoàn tất hai cuộc cách mạng về khoa học và kỹ nghệ, đã lập tức bành trướng sức mạnh của họ sang Á, Phi, và Mỹ châu để tìm kiếm thuộc địa và tài nguyên nhằm phục vụ cho nhu cầu của nền kỹ nghệ đang phát triển mạnh mẽ.

Cho nên trường hợp Trung quốc cũng không thể ngoại lệ. Khi Chu ân Lai nêu vấn đề, đại ý là: “Sau khi người Mỹ rút khỏi Việt nam, Nga sẽ lấy Cam Ranh và khống chế khu vực Biển Đông. Vì thế Mỹ cần để cho Trung quốc kiểm soát Hoàng sa…, Kissinger không hề ngạc nhiên đáp lại: “Khi chúng tôi rời khỏi Việt nam rồi, nghĩa là chúng tôi đã cách xa đó hơn mười ngàn dặm, vậy thì chuyện Hoàng sa và Trường sa là giữa ngài và Hà nội, sao ngài lại hỏi tôi?” Câu hỏi mà Chu đặt ra với Kissinger cũng nói lên cái quy tắc trong chính trị của sức mạnh, không phải ai muốn làm gì thì làm mà phải biết giữ tôn ti trật tự; chẳng hạn Hà nội cần phải biết cư xử đối với Bắc kinh. Cũng vậy, Trung quốc muốn chiếm Hoàng sa phải tham khảo ý kiến Hoa kỳ.

Trung quốc đã giúp Hoa kỳ bao vây và đánh bại Liên xô. Đổi lại, Trung quốc đã được Hoa kỳ và các nước phương Tây hợp tác và hỗ trợ để canh tân đất nước. Không kém thực dụng khi gạt qua một bên các giáo điều mác-xít, Đặng Tiểu Bình, người đã đưa nước Trung hoa từ lạc hậu bước lên vị trí siêu cường hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố vào năm 1976 rằng: “Bất luận mèo trắng hay mèo đen, bắt chuột giỏi là được!”. Thế giới tin rằng câu nói nổi tiếng này đã mở đường cho Trung quốc đi đến “giầu mạnh” (?) ngày nay. Nhưng Trì hạo Điền, Bộ trưởng Quốc phòng Trung quốc, năm 2005 lại lưu ý rằng: “Chính sách cải cách và mở cửa ra thế giới bên ngoài của Trung quốc còn phải dựa vào tiền vốn và công nghệ của Hoa kỳ… Chúng ta còn cần đến nước Mỹ để học tập trên mọi lãnh vực…”. Về phía Mỹ, cựu Tổng thống Nixon cũng rất tự tin khi viết trong “Victory Without War” (Bất Chiến Tự Nhiên Thành): “Đi với Trung quốc, Hoa kỳ chẳng mất gì mà lại được rất nhiều.” Điều đó hàm ý lợi ích rất hứa hẹn từ một thị trường khổng lồ như Trung quốc trong tương lai.

Tuy nhiên, cần khách quan thừa nhận rằng Trung quốc ngày nay, bên cạnh nhu cầu phải bành trướng tìm tài nguyên và thị trường, còn là mối nguy kinh hoàng cho cả thế giới khi họ dồn mọi tiềm lực quốc gia vào sách lược tăng trưởng, bất chấp đạo đức trong kinh doanh, lũng đoạn kinh tế thế giới và thậm chí đầu độc sự sống con người. Là lãnh đạo thế giới và là “bà đỡ” cho sự phát triển mạnh mẽ của Trung quốc, Hoa kỳ sẽ phải gánh trách nhiệm giải quyết và ngăn chận mọi hậu quả của những vấn đề mà các nhà lãnh đạo Trung quốc gây ra cho nhân loại.

Vì thế mà Hà nội đã không ngần ngại lên tiếng về sự hiện diện cần thiết của Hoa kỳ tại Biển Đông như “là một điều dễ hiểu và hoàn toàn chính đáng.” Thái độ này cũng cho thấy Hà nội đã chính thức thừa nhận quan hệ với Hoa kỳ, thế lực duy nhất có thể giúp Hà nội ngăn chặn tham vọng của Bắc Kinh. Đối với Hà nội sự hiện diện của dàn khoan “Mobil” của Mỹ ở trong vùng tranh chấp tương đương với sức mạnh của Đệ Thất Hạm Đội trên Biển Đông. Đây là điều mà Trung quốc không muốn thấy. Ngoài ra, Trung quốc rất sợ Mỹ tiếp tay lập ra cái liên minh Việt nam – ASEAN làm đối trọng và liên minh Mỹ-Nhật-ASEAN để bao vây Trung quốc. Cuối cùng Hoa kỳ đã dùng ngoại giao và “internet” để thuyết phục dư luận rằng Trung quốc là mầm mống của mọi bất ổn trong vùng và trên toàn thế giới. 

Cho nên nhìn chung, Hoa kỳ vẫn ở thế “kèo trên” trong việc đổi chác này. Lý quang Diệu, một nhà lãnh đạo rất am hiểu về Trung quốc, đã có nhận định rất tinh tường khi nói: “Mao trạch Đông vẽ một bức tranh rất vĩ đại cho tương lai Trung quốc nhưng trên một cái nền khảm xà cừ. Khi nước mưa tạt vào, mọi thứ sẽ trôi đi hết. Tầu lại hoàn Tầu!”. Rõ ràng là sau khi đào bới đến cạn kiệt mọi tài nguyên và bằng mọi sức lực có thể, để đổ vào công cuộc canh tân đất nước, rốt cuộc chưa đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của thế giới.

Đất nước Trung hoa giờ đây đã trở nên cằn cỗi, trơ trụi. Cả thế giới đang quay lưng lại với cái xứ sở nhiều tham vọng bệnh hoạn này. Đấy là chưa nói đến cái nỗ lực ngày càng tuyệt vọng của lãnh đạo Trung quốc cưỡng lại khát vọng nhân quyền của hơn một tỉ người trong hơn sáu mươi năm qua. Bà Hillary Clinton tiên đoán: “Trung quốc sẽ sụp đổ. Lãnh đạo ở Bắc kinh đang cưỡng lại cơn bão lịch sử một cách vô vọng. Vì sự kềm hãm càng lâu sức công phá lại càng khủng khiếp. Họ đang làm trò cười cho thiên hạ!” Phải chăng đấy là cái định mệnh của một “Trung hoa vĩ đại?”
 
Tôi luôn cho rằng đất nước Trung hoa mang cái căn bệnh “đau bao tử kinh niên.” Trong suốt giòng lịch sử, họ hợp rồi tan nhưng chỉ với một nghị trình cai trị cố hữu là chính trị về dân số, nghĩa là lãnh đạo Tầu chỉ lo cái miếng ăn và việc làm cho hơn “50 sắc dân” là hết ngày rồi. Các lân bang cũng liệu theo cái tình trạng sức khỏe của Thiên triều mà nổi trôi. Khi Trung hoa khỏe mạnh thì các lân quốc phải lo chống đỡ. Đó cũng là số phận của Việt nam nhược tiểu sát cạnh một Trung quốc “vĩ đại” trải qua lịch sử hàng ngàn năm.
 
Cái nghiệp chướng này đã được Gs Carlyle Thayer diễn tả một cách rất chính xác bằng nhóm chữ “The Tyranny of Geography”. Điều chỉnh lại trật tự chính trị và tương quan lực lượng trong khu vực Biển Đông ngay sau khi Trung quốc đã được canh tân, đã nằm trong dự liệu của các nhà làm chính sách Hoa kỳ. Vào ngày 7 tháng 5,1999, trên tờ Australian Finacial Review, Kissinger còn nhắc lại rằng: “ Chúng tôi đã rút khỏi NVN… Tuy  nhiên, chúng tôi sẽ không rời bỏ cái xứ sở mà vì nó chúng tôi đã phải hy sinh gần bốn chục ngàn người Mỹ, chỉ để đưa hàng chục triệu người vì đã tin lời chúng tôi, đặt vào ách thống trị của cộng sản!” Đây cũng chính là những gì Ts Kissinger đã úp mở với Thủ tướng Chu ân Lai vào tháng 7 năm 1972: “Nếu chúng tôi có thể thiết lập một quan hệ mới với Bắc kinh, tại sao chúng tôi lại không thể thiết lập một quan hệ với Hà nội? Tuy nhiên vì thái độ cứng đầu của Hà nội hiện giờ, có lẽ cũng phải mất từ mười đến mười lăm năm.”
 
Câu hỏi đặt ra là Hoa kỳ trở lại Việt nam để làm gì? Nếu đúng như Kaplan nhận định là để dùng Hà nội ngăn chặn tham vọng bành trướng của Bắc kinh ở Biển Đông, vậy thì việc này có thể xẩy ra không, nếu trong CTVN Hoa Kỳ đã ra tay đánh bại và hủy diệt sức mạnh của Hà nội, sức mạnh lớn nhất trong vùng? Nếu câu trả lời là “không thực hiện được nếu đã ra tay đánh bại Hà nội”, thì việc dùng Việt nam để ngăn chặn tham vọng của Trung quốc rõ ràng là một sách lược đã được trù liệu trước khi Hoa thịnh đốn giúp Bắc kinh canh tân đất nước. Tương tự, khi Nhật đầu hàng, Hoa kỳ đã không để đồng minh xử tử Nhật hoàng vì sẽ tạo ra một khoảng trống chính để cộng sản Nhật đứng ra cướp chính quyền.
 
Nếu vào năm 1975 mà rơi vào hỗn loạn, ai sẽ thay Mỹ đề chận Tầu trong cái bối cảnh ngăn chận Liên xô trên toàn cầu? Cho nên ngay sau khi ĐCSVN thống nhất Việt nam, vào ngày 7 tháng 5 năm 1975, khi Hà nội nhờ Liên xô chuyển một thông điệp đến Mỹ ngỏ ý muốn xin thiết lập “quan hệ tốt với Hoa Thịnh Đốn”, thì chỉ hơn một tháng sau vào ngày 12 tháng 6 năm 1975, Ngoại Trưởng Kissinger đã cho Sứ quán Việt nam ở Ba lê biết là “Mỹ không có hận thù gì với Hà nội và sẵn sàng nghe bất cứ điều gì về việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước mà Hà nội có thể đưa ra.” (Đây là cái thế trong âm có dương và trong dương có âm, thật không tệ.) Liên xô sụp đổ và Hà nội rơi trở lại quỹ đạo của Trung quốc (1990) như dự tính. Hoa kỳ bắt đầu vận động bỏ cấm vận rồi chính thức thiết lập quan hệ với Hà nội, để đưa Việt nam trở về với cộng đồng thế giới (giúp trả nợ IMF, cho hưởng tối huệ quốc, gia nhập ASEAN & LHQ, rồi WTO…).
 
Hoa kỳ đã chấm dứt cuộc nội chiến ở Việt nam với một thế quân bình hữu hiệu ở Đông Á và  với giá rẻ mà hiệu quả rất cao, bởi vì: Ai có thể kềm giữ Hà nội hữu hiệu hơn Bắc kinh? Và ngược lại, ai có thể thay Hoa kỳ ngăn chận Bắc kinh tại Đông Nam Á hữu hiệu hơn là Hà nội? Qui luật này cũng giải thích cái mâu thuẫn tại sao Hoa kỳ lại giúp ĐCSVN (công cụ của Liên xô) chiếm NVN trong khi Liên xô lại là kẻ thù của Hoa kỳ. Nó cũng nhắc nhở rằng trong BGQT không có bạn đồng minh mà cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi quốc gia.
 
D- Nạn nhân của trật tự mới ở khu vực Biển Đông

Dựa trên cái liên hệ nhân qủa giữa CTVN và bất ổn tại Biển Đông, chúng ta tìm hiểu xem tranh chấp ở Biển Đông sẽ diễn tiến ra sao, ai được gì và ai mất gì? Nguyên nhân tranh chấp từ đâu, tranh chấp cái gì và những ai can dự? Xin nhắc lại là bất ổn hiện nay bắt nguồn từ sách lược của Hoa kỳ trong CTVN và Chiến Tranh Lạnh, với danh nghĩa bảo vệ nền hoà bình thế giới, nhằm đánh bại Liên xô và đưa Hoa kỳ từ vị trí một cường quốc trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới. Trong tiến trình thực hiện, CTVN đã được chấm dứt với một trật tự do Hoa kỳ thiết lập ra: Dùng Trung quốc kềm chế công cụ của Nga tại Đông dương là Hà nội đồng thời đưa Trung quốc gia nhập vào liên minh các nước dân chủ kỹ nghệ phương Tây do Hoa kỳ lãnh đạo để bao vây Liên xô. Đổi lại Hoa kỳ phải giúp Bắc kinh hiện đại hoá nước Tầu.
 
Một Trung quốc đã canh tân tất có nhu cầu bành trướng để tìm kiếm tài nguyên phục vụ cho một nền kỹ nghệ đang phát triển mạnh là nguyên nhân căn bản của tranh chấp Biển Đông hiện nay. Cái quân bình trong trật tự cũ mà Hoa kỳ lập ra, “Trung quốc vs (Hanoi + Liên xô)”, đã thay đổi và nghiêng dần về phía Trung quốc sau khi Liên xô sụp đổ. Với tư cách là lãnh đạo của thế giới hiện nay, Hoa kỳ phải đứng ra can thiệp để điều chỉnh lại cái trật tự đã lỗi thời và duy trì hoà bình. Sở dĩ Hoa kỳ phải nhân danh hoà bình vì luật pháp Hoa kỳ không cho phép chính quyền Mỹ, cho dù đóng vai trò cảnh sát thế giới, can dự vào tranh chấp lãnh thổ giữa hai quốc gia khác. Đó cũng là một trong cái cớ mà Trung quốc bám vào đó để chỉ trích Hoa kỳ và đòi giải quyết mọi tranh chấp ở Biển Đông theo mô thức song phương có lợi cho họ.
 
Đến nay, có thể nói là Hoa kỳ đã thành công trong việc điều chỉnh đem lại thế quân bình trong khu vực Biển Đông. Nhờ cái trật tự mới “Trung quốc vs VN - Hoa kỳ + Thế Giới”, cán cân lực lượng đã nghiêng về phía liên minh do Hoa kỳ lãnh đạo.
 
 Vào cuối năm 2010 Tổng thống Obama đã tuyên bố: “Bây giờ là lúc Hoa kỳ phải đứng ra nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo của mình ở Thái Bình Dương bằng cách củng cố lại các liên minh cũ và hoàn thành tốt đẹp các liên minh mới trong đó có Trung quốc”. Trên thực tế, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã làm đúng như vậy trong suốt hai năm qua. Mỹ và Trung quốc hiện nay vẫn đang trong xu thế “hòa hoãn” (détente), có thể nào Trung quốc trong khi tiềm lực quân sự còn yếu và lệ thuộc Mỹ mọi mặt, lại dám ngang nhiên cắt đứt quan hệ với Mỹ vào lúc này? Dựa vào thực tế này, nguy cơ chiến tranh bùng nổ xem ra đã giảm đi rất nhiều.
 
Một thực tế khác không thể bỏ qua, là trước khi gây chiến tranh, người ta phải đặt câu hỏi: “Có chắc thắng không và được những gì?”Ấy là chưa nói đến cái sự thật là trong trật tự này, Trung quốc đang bị cả thế giới cô lập. Và trong sách lược trường kỳ của Hoa kỳ, các chiến lược gia Mỹ đã không coi việc hoà hoãn với Trung quốc là cứu cánh. Giải trừ cộng sản mới là mục tiêu của Mỹ khi họ tiến lại gần Trung quốc để “biết người biết ta”. Ông Gregory Clark, một nhà ngoại giao Úc, nhận định rằng cuộc chạy đua vũ trang từ 1950 của thời Chiến Tranh Lạnh đã làm Liên xô suy yếu, và: “Cuộc chơi ngu ngốc đó đang tiếp tục xẩy ra tại Biển Đông. Nếu Nga đã trở thành nạn nhân thì tôi nghĩ rằng Trung quốc cũng sẽ trở thành nạn nhân…” Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, những hứa hẹn trao đổi thương mãi và khoa học với Liên xô là củ cà rốt và cây gậy chính là việc Mỹ đi với Trung quốc để bao vây Liên xô. Tương tự, giúp Trung quốc canh tân đất nước chính là củ cà rốt và đẩy Trung cộng vào thế bị bao vây như ngày hôm nay là “cây gậy” mà Hoa kỳ đã dùng con đường ngoại giao trong những năm vừa qua để thiết lập và xiết chặt vòng vây bằng chính sách hỗ trợ dân chủ hoá Miến điện mới đậy. Ông Renato Reyes, một chính khách của Phi Luật Tân, nhận định:
 
“Mỹ muốn thống trị toàn khu vực tranh chấp. Họ đang thể hiện sức mạnh quân sự để thị uy các nước trong vùng, kể cả Trung quốc. Mỹ có thể không muốn đánh Trung quốc lúc này nhưng chắc chắn là họ muốn ngăn chận, bao vây và buộc Trung quốc phải lệ thuộc vào Mỹ!”.
 
Trong quá khứ, nội các Nixon/Kissinger đã không che dấu sự hãnh diện về chính sách ngoại giao hữu hiệu của mình. Liên xô đã sụp đổ và có lẽ sẽ đến lượt Trung quốc. Đây mới là lý do sâu xa khiến cho giới Lãnh đạo ĐCS Trung quốc phát động tình trạng chiến tranh với bên ngoài, nhằm xì hơi quả bóng bất mãn trong dân chúng và mưu tìm sự sống còn của Đảng. Với luận điệu sặc mùi chủ nghĩa dân tộc “Đại Hán” và hiếu chiến, phe diều hâu và giáo điều Trung quốc hô hào bảo vệ “chủ quyền lịch sử” gần như toàn bộ Biển Đông, với ảo tưởng có thể chiếm trọn khối tài nguyên dầu khí dồi dào trong vùng để nuôi sống và vực dậy một nền kỹ nghệ về chiều.
 
Nhưng nếu xảy ra chiến tranh thì ai đánh với ai? Trước hết, chúng ta phải loại bỏ khả năng xảy ra một cuộc hải chiến giữa Trung quốc và 22 quốc gia vành đai TBD do Hoa Kỳ chỉ huy mà vừa qua mới phối hợp tập trận tại Hawaii. Bởì vì, không nghi ngờ gì, đó sẽ là một cuộc tự sát tập thể của Hải quân Trung quốc trên Biển Đông, mà nếu đúng như thế, quân phiệt Trung hoa đang lập lại kinh nghiệm đau thương mà Nhật bản đã phải trả giá trong Thế chiến thứ Hai. Mà thua trận thì ĐCS Trung quốc cũng biến mất. Tôi tin rằng các nhà lãnh đạo Trung quốc hoàn toàn có đủ bản lĩnh và tỉnh táo để tránh phải rơi vào sai lầm chết người đó.
 
Khả năng còn lại là giữa Trung quốc và các nước có quyền lợi trực tiếp phải bảo vệ, đặc biệt là Việt nam. Theo tôi, trong tình huống này, Việt nam là quốc gia mong đợi chiến tranh bùng nổ nhiều nhất, nhưng họ sẽ không phải là kẻ châm ngòi (chỉ có thể là Hoa kỳ như vụ Maddox ở vịnh Bắc việt). Việt nam bây giờ giống hệt như tình hình của Do thái vào cuối năm 1956, bị Ai cập và các nước Ả rập đe doạ. Ai cập mở chiến dịch quân sự kiểm soát hai kênh đào Suez và Akaba để bao vây Do thái. Do thái biết liên minh Anh - Pháp sẽ mở chiến dịch “Musketeer” để dành lại quyền kiểm soát kênh đào Suez, tướng Moshe Dayan của Do thái liền mở chiến dịch hành quân “Sinai” giải toả kênh “Akaba” và chiếm đóng giải Gaza.
 
Một khi chiến tranh xảy ra, Mỹ sẽ có lý do chính đáng để can thiệp và đẩy lui quân Tầu trở về lục địa Trung hoa. Lúc đó, nhân cơ hội, Việt nam sẽ đưa quân lên lấy lại ải Nam Quan, ra biển giành lại các đảo thuộc Hoàng sa và Trường sa đã từng bị Trung quốc đánh chiếm, hủy bỏ các dự án kinh tế với Tầu trên lãnh thổ Việt nam và đuổi lao động Tầu bất hợp pháp về Trung quốc;  Và giao cho tư bản Mỹ khai thác khối dầu khí trong Biển Đông. Nhìn lại lịch sử, phải thừa nhận rằng CSVN rất giỏi về khả năng chớp thời cơ giành thắng lợi. Được vậy, với công trạng giữ gìn độc lập quốc gia và giành lại chủ quyền lãnh thổ, Đảng Cộng sản có thể giải hoà với dân chúng. Khi đó họ sẽ có được một cơ hội hiếm hoi tự lột xác và mang vào một bộ mặt khác để được chấp nhận tồn tại.
 
Nhưng Hoa kỳ, là siêu cường lãnh đạo thế giới, đã lên tiếng khẳng định quyền lợi và trách nhiệm bảo vệ hoà bình trong vùng Biển Đông, cho nên Hoa kỳ không thể đứng ngoài cuộc tranh chấp về quyền lợi. Ở vào địa vị Hoa kỳ và chiếu theo sách lược toàn cầu của họ từ 1950 đến nay thì mục tiêu tối hậu của Hoa kỳ trên danh nghĩa là bảo vệ nền hoà bình trên toàn thế giới. Nhưng nếu nghĩ rằng Mỹ chỉ đến Biển Đông, không ngại tốn kém để bảo vệ hoà bình thì đó là môt cái nhìn thiếu thực tế. Cho nên không thể loại bỏ cái động lực của Mỹ đến để bảo vệ khối lương dầu hoả ở Biển Đông và sự ổn định của thị trường trong vùng.
 
Nếu chiến tranh xẩy ra, Trung quốc tất nhiên sẽ bị suy yếu. Khi đó, đối thủ chủ yếu của Hoa kỳ vẫn là Nga, mầm mống đe doạ nền hoà bình thế giới, lại có cơ hội trỗi dậy vì cái sức mạnh kềm chế, là liên minh của Hoa kỳ và các nước phương Tây với sự hợp tác của Trung quốc, đã bị suy yếu hoặc tan vỡ. Đó là chưa nói đến hậu quả rối loạn của nền kinh tế thế giới và các hệ lụy xã hội một khi Trung quốc sụp đổ như Đông Âu, kéo theo hàng chục triệu người Tầu tị nạn. Cho nên, Cộng sản Tầu sẽ phải sụp đổ theo cái mô thức của Nga thời Chiến tranh lạnh và đó là sự thay đổi thực tế nhất mà Hoa kỳ mong muốn và có thể kiểm soát được. Yếu tố tối quan trọng này, một lần nữa, xem ra không chấp nhận giải quyết những tranh chấp quyền lợi ở Biển Đông bằng chiến tranh, nhất là chiến tranh nguyên tử.

Cứ theo lẽ thường của “chính trị sức nạnh” mà xét thì lần tranh chấp này, Việt nam sẽ là kẻ bị mất, còn Trung quốc và Hoa kỳ là người được; mất bao nhiêu và được đến đâu sẽ do Hoa kỳ đạo diễn ở hậu trường chính trị. Kaplan nhận định, “Việt nam mất nhiều hay ít là tùy vào khả năng đối phó của các nhà lãnh đạo Hà nội trước cái sở trường hù doạ lấn át cố hữu của anh bạn hàng xóm to xác, vốn luôn đóng vai trò kẻ mạnh.” Nhưng Trung quốc không dại gì rơi vào cái bẫy của Hoa kỳ để rồi mất cả chì lẫn chài, bởi vì họ đã chiếm được rất nhiều trong hoà bình thì cớ gì phải đánh Việt nam trong khi không biết phản ứng của Hoa kỳ và thế giới ra sao; đồng thời Trung quốc cũng biết chắc là không thể gạt các nhà tư bản Mỹ ra ngoài để hưởng trọn lộc trời!. Đó là chưa nói đến vấn đề là liệu có chắc thắng hay thành trắng tay? Nếu Việt nam mà “dễ bắt nạt” thì họ đã chẳng còn tồn tại với chính sách thực dân hung hãn của Hán tộc trong suốt hai ngàn năm qua. Đây cũng là nhận định của Ts Kissinger.
 
Các nhà lãnh đạo Trung quốc hiểu rất rõ lý do dẫn đến sự sụp đổ của Liên xô và sẽ không ngạc nhiên khi ai đó nói rằng sau Liên xô, Trung quốc là mục tiêu cuối cùng của sách lược ngọai giao dài hạn của Hoa kỳ. Trên thực tế, Bắc kinh có cùng tâm trạng với giới lãnh đạo của các chế độ độc tài toàn trị ngày nay, giới chóp bu Trung Nam Hải cũng mong muốn được “hạ cánh an toàn.” Vì vậy, đối với Hoa kỳ, vấn đề chỉ còn là làm sao thúc đẩy Trung quốc thay đổi một cách ôn hòa và trong vòng kiểm soát. Hoa kỳ đã dùng kế sách “hoà hoãn” để thâm nhập và bắt rễ vào Trung hoa lục địa. Ngày nay, thành trì cộng sản còn trơ lại một Trung quốc “đỏ vỏ trắng ruột” và bị phong toả chặt chẽ. Hoa kỳ chỉ còn việc thúc đẩy xung khắc nội bộ bộc phát và đưa chế độ Cộng sản Trung quốc vào thùng rác của lịch sử. Biến cố này tất nhiên kéo theo hai nước chư hầu cộng sản, Bắc Hàn và Việt nam. Trong cái trật tự mới này, không còn con đường nào khác, Cộng sản Hà nội cũng sẽ phải lột xác như Trung quốc với một thể chế bớt chuyên chế và từng bước nhượng bộ về nhân quyền.
 
Nếu trong CTVN Hoa kỳ đã độc đoán sắp xếp mọi chuyện thì ngày nay, trong tiến trình điều chỉnh lại thế quân bình ở Biển Đông, người Mỹ cũng sẽ hành động tương tự một cách nhất quán, phục vụ cho lợi ích và mục tiêu của chính sách toàn cầu dài hạn của Hoa kỳ. Vẫn biết rằng đó là một thực tế chua chát và phũ phàng đối với quê hương và dân tộc Việt nam, nhưng phải chấp nhận quan điểm chính trị thực tiễn và lợi ích của người Mỹ, chúng ta mới “ngộ” ra sự thật trong sách lược dài hạn và tinh vi của họ; nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng nhìn nhận và giải quyết vấn đề Biển Đông nói riêng và vận mệnh đất nước nói chung một cách thực dụng.

Chung quy, không loại trừ những “xô xát” trên biển mang tính chất dương oai hoặc thể hiện chính nghĩa, chiến tranh quy mô giữa Trung quốc và Việt nam khó mà xảy ra, ít nhất là trong vòng vài ba thập niên tới. Việt nam sẽ mất thêm một ít chủ quyền trên biển và Trung quốc đành phải bằng lòng với một thắng lợi khiêm tốn đó so với tham vọng ban đầu, nhưng sẽ phải làm ngơ để cho Hà nội phát triển thêm vùng ảnh hưởng của mình về phiá Tây phù hợp với ý định của Hoa kỳ về thế quân bình trong vùng hiện nay.
 
Bây giờ, thế giới dù đa cực hay đơn cực, mỗi khi có bất ổn ở vùng nào đó người ta nghĩ ngay đến vai trò của Mỹ. Cho nên, loại trừ những yếu tố khách quan có thể xẩy ra ngoài tầm kiểm soát của Hoa kỳ, chính sách đi với Trung quốc sẽ tiếp tục đến hết thế kỷ này. Cục diện này là đảm bảo sự ổn định trong vùng và thúc đẩy mạnh các diễn biến nội tại trong tiến trình dân chủ hóa Trung quốc và Việt nam sẽ xảy ra một cách ôn hòa và trong một tương lai không xa. Nhưng sự thay đổi đó vẫn chỉ là thứ “dân chủ hình thức”, có nội dung phù hợp với văn hoá, phong tục tập quán, lịch sử và mức độ phát triển của từng nước.
 
Hy vọng những nhận định trên đây có giá trị đóng góp với mọi giới và mọi thành phần dân tộc Việt nam, trong và ngoài nước, đang ngày đêm quan tâm đến vận mệnh nước nhà và mong mỏi tìm ra được phương thức đấu tranh thích hợp. Cộng đồng các quốc gia trên thế giới ngày naykhông còn “đối đầu” nữa, mà đã trở nên tùy thuộc lẫn nhau. Bối cảnh này khiến các nước lớn nhỏ phải điều chỉnh lại chiến lược đối ngoại và đặt thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu chiến lược nhằm phù hợp với tình thế mới và xu thế của thời đại. Nói một cách cụ thể hơn, là một nhược tiểu điều tối cần phải nhận thức rõ được yếu tố “Thiên thời”, chúng ta mới có thể tìm ra sách lược đúng đắn để làm kim chỉ nam cho đại cuộc trong cái thế giới khác biệt này. Có sách lược đúng đắn mới lôi cuốn được đám đông thầm lặng. Khi đó những yếu tố lý tưởng như “đoàn kết” hay “dấn thân” sẽ xuất hiện. Nam Việt nam sụp đổ chỉ vì thiếu một chữ “thời.”
Tháng 9 năm 2012
Ủy Ban Bảo Vệ STVLT/Úc châu
 

Tài liệu tham khảo- Memos for Kissinger or The Transcrips: A Verbatim Record of U.S. U.S. Diplomacy, 1966-1977.
- Carlyle Thayer, 2011, “The Tyranny of Geography: The Vietnamese Strategies to Constrain China in the South China Sea”, Paper presented to International Studies, 52nd Convemtion, Montreal, Quebec, Canada, from Mãch 16-19, 2011, in Contemporary South East Asia: A Journal of International and Strategic Affairs, Vol. 33, No. 3, Dec. 2011.
- Henry Kissinger, 1999, “I, Henry”, Australian Financial Review, May 7, 1999.
- Nguyễn ngọc Tấn, 2011, CTVN, Một Nước Cờ Độc, 2nd edition, Westminster: Người Việt Quốc  Gia Hải Ngoại.
-                                2012, The Vietnam War Revisited: A Revolutionary View of  U.S. Foreign Policy, Westminster: Vietnamese Nationalists in Diaspora,     
- Richard Nixon, 1999, Victory Without War, New York: Simon & Schuster.
- Robert Kaplan. “The Vietnam Solution: Vietnam Could be a Vital Ally for America in balancing China’s rise,” Atlantic, May 25, 2012, also The

Không có nhận xét nào: