Pages

Thứ Sáu, 1 tháng 3, 2013

Thông tin: Động cơ chuyển hóa xã hội. (phần một)



Bảo Giang (Danlambao) – Mãi phải nhìn cuộc sống không một tia sáng đổi thay, vẫn lầm lũi cúi mặt bước qua từng ngày, không một tiếng nói cho ra tiếng nói từ mấy chục năm qua, nhiều người cho rằng: Đất nước ta đã không may, gặp phải thời kỳ thiếu hẳn giai cấp sĩ phu, là giai cấp có tiếng nói bất khuất, uy vũ, làm hoán chuyển, thay đổi bộ mặt xã hội, nhưng lại quá dư thừa một giai cấp cơm áo được gọi là, hay tự cho là “trí thức”, bao gồm những người có học vị cao, nơi quan trường, công đường, những nhà văn, nhà báo, nhà giáo, những người làm thông tin không tim óc… mang hình dạng của những con lươn, con đỉa hơn là hình ảnh của một cây trúc, cây tùng!
Chuyện này có lẽ không sai. Bởi vì khi nhìn lại dòng lịch sử của Việt Nam, người ta dễ nhận ra cái tiết tháo, sĩ khí, vị thế và tiếng nói lẫm liệt của giai cấp trí thức được gọi là sĩ phu của đất nước xuất hiện trong mọi hoàn cảnh. Thời bình, thời loạn, trong quan trường, quân đội hay trong công đường, không nơi nào thiếu tiếng nói đầy uy lực của họ. Đặc biệt, tiếng nói của họ trước sự hưng vong của đất nước có khi còn lấn át cả vua chúa. Điển hình là trường hợp của những vị, xa thì như Ngô Vương Quyền, Nguyễn Trải, Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, anh em nhà Tây Sơn. Gần thì như Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Nguyễn Thái Học… Hay các vị chí sĩ như Cường Để, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đình Diệm. Ở nơi họ là một tiết tháo vì dân vì nước được thể hiện một cách rất rõ ràng, đầy đủ và trung thực. Có thể nói là, chính tiếng nói và hành động tích cực của giới sĩ phu đã làm chuyển hóa toàn bộ xã hội và đã giữ vững được nền độc lập của đất nước mấy nghìn năm qua.
Như thế, nếu giai cấp sĩ phu, với những vị điển hình như trên là niềm tự hào, là tiết tháo của dân tộc, thì những kẻ đối nghịch với họ là Hồ Chí Minh, Lê Chiêu Thống và tập đoàn CSVN ra sao? Liệu có bị coi là những con lươn, những con đỉa vĩ đại, cực độc, gây thảm họa cho đất nước chăng?
Tôi cho là thế. Bởi vì, xét trên tất cả mọi phương diện, mọi đường họ đi qua, mọi việc họ làm, chưa có một người nào, sách vở chân chính nào dám nhìn nhận công lao của họ với đất nước, mặc dù họ đã không ngừng rêu rao, lừa dối cái thành tích chống Pháp hay “đánh cho Mỹ cút”, đem lại độc lập cho đất nước từ mấy chục năm qua (nếu có một chút thì cũng lợi bất cập hại, vì không có HCM Việt Nam vẫn có độc lập sau Đệ nhị thế chiến mà không có CS). Trái lại, khi đem ra cân đo trước ánh sáng, mọi người đều thấy, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã, đang ngày đêm ra sức tàn phá cuộc sống tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam. Mà cuộc tàn phá này không chừa ra bất cứ một khoảng trống nhỏ nào. Trái lại, nó xâm nhập vào trong tất cả mọi lãnh vực, từ tôn giáo, xã hội đến văn hóa chính trị, quân sự. Tệ hơn thế, nó còn đầu độc dân gian bằng luồng thông tin gian trá để đưa đất nước, dân tộc vào vòng nô lệ cho cộng sản Nga Tàu trước kia, và hôm nay là nô lệ cho bành trướng Trung cộng.
Đây hẳn nhiên không phải là lời lẽ một chiều, vô chứng cớ để lên án họ. Trái lại, chính Lê Duẩn TBT đảng CSVN, khi nói đến quan hệ Trung-Việt, đã tuyên bố. “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc…” Nghĩa là, chống Mỹ cứu nước chỉ là chiêu bài lừa dối. Thực tế CSVN chỉ là quân đánh thuê cho kẻ thù của dân tộc ở ngay trên đất nước mình. Họ đã không coi Việt Nam là của dân tộc Việt Nam, nhưng là của Tàu của Liên Sô. Kế đến, một người đã quá nửa đời nhúng chàm trong tổ chức CS. Phút cuối đã có may mắn, mở được mắt ra, và nhìn thấy cái bộ mặt giả của chúng rớt xuống. Từ đó, ông ta đã có can đảm của một cá nhân còn bản thể người mà viết ra được một phần của sự thật khi nói về mô hình mà HCM mang vào Việt Nam là: “Theo tôi, ông Hồ có mang về mô hình ‘chiếc gông chuyên chính vô sản’ đấy chứ” … ông thực hiện chuyên chính vô sản, chuyên chính độc đảng,…; ông thủ tiêu triệt để tự do báo chí, ông đóng cửa trường Luật. Báo chí và tòa án kém xa thời thuộc địa… Tự do, bình đẳng của công dân không có trong tư duy của ông chủ tịch nước VN Dân chủ Cộng hòa. Rồi ông ta đưa ra kết luận. Theo tôi một nhà lãnh đạo dân tộc mà yêu nước kiểu như vậy thì bằng mười làm hại đất nước, dân tộc, thà ông không yêu nước thì có khi lại là may cho nhân dân.” (Bùi Tín, một vài chuyện đã rõ về ông Hồ, Dân làm Báo, 19-2-2013)
Rồi ai cũng biết, thời của những sĩ Phu, Chí sĩ ra giúp nước, đã kết hoa cho đất nước những danh tướng đầu đội trời chân đạp đất, nói lên cái chí bất khuất kiêu hùng của dân tộc như Trần Bình Trọng, Trần Quang Khải, Lý Thường Kiệt, Lê Lai, Yết Kiêu, Dã Tượng, Lê Sát, Ngô Thời Nhiệm… rồi đến Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Đăng Vĩ, Trần Văn Hai, Ngụy Văn Thà… đã làm nên một Nhà Nam đâu đấy tỏ.
Trong khi ấy, tập thể lươn, đỉa độc kia cũng đẻ ra được những con đỉa như Nguyễn Đăng Thanh, Nguyễn Thanh Tú, Dương Trung Quốc, Lê Phong Lan… những đồ tể Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng… của mùa đấu tố. Rồi những Xuân, Tiềm, Tường, Phan, Đóa, Trinh… của Mậu Thân ở Huế. Hay những tên tuổi như Phạm Văn Đồng, Ung Văn Khiếm với công hàm 1958 về Hoàng Trường Sa. Kế đến là những hiệp thương biên giới để Nam Quan, Quỷ Môn Quan, Bản Giốc, Tục Lãm, Lão Sơn, vịnh bắc bộ thành đất của người. Hay với kế hoạch khai thác bauxite tây nguyên và thuê rừng đầu nguồn để giao tài nguyên của đất nước cho vào tay kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Như thế, làm lãnh đạo và yêu nước theo kiểu con đỉa thì bằng mười làm hại đất nước!
Hại bằng mười, bằng trăm, thậm chí bằng ngàn là vì đất nước không còn giai cấp sĩ phu để cho dân chúng dõi mắt tìm về. Trái lại, từ hệ thống, cơ chế cộng sản chỉ có thể đào tạo và đẻ ra một tập thể gọi là “trí thức”, với đầy vẻ, mang những học vị, nhớn có, bé có, thật có, giả mạo có. Đó là những bằng cấp cốt để khoe ra cái chữ và tranh giành nhau cách phục vụ cho tập thể gian trá cộng sản để vụ lợi cho bản thân, không hề để phục vụ cho quyền lợi của đất nước, của xã hội. Rồi họ trở thành thành viên của hội “trí thức yêu nước”, “hội nhà văn, nhà giáo, nhà báo yêu nước”, thậm chí “công giáo, phật giáo yêu nước”. Chữ yêu nước là lớn, nhưng cộng sản lại định nghĩa một cách rất rõ ràng trước khi mở ra những cái hội như những cái nơm, cái giỏ (rọ) để đơm “trí thức” vào là: Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là yêu đồng bào và tổ quốc Việt Nam. Mà xã hội chủ nghĩa là đồng nghĩa với với bạo lực và thông tin gian dối. Như thế, chính nó xác định rõ thành phần trong cái rọ này là ai và như thế nào? Chắc chắn, nó không hề thuộc về đời sống của nhân dân Việt Nam!
Hoặc giả, họ là đội quân, công an sắt máu của đảng vì đảng, không phải là của đất nước và vì nhân dân, nên không thể có những Ngô Quyền, Hưng Đạo Vương, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng… Nhưng có Lê Đức Anh, Lê Khả phiêu, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Đăng Thanh, Nguyễn Thanh Tú… cúc cung thờ tầu. Nên xét cho cùng, cũng chẳng lạ gì sau cuộc chiến biên giới với Trung cộng vào năm 1979, những niên trưởng, đồng đội của họ nằm xuống, không được đảng CS cho lập nghĩa trang liệt sĩ chống bành trướng. Trái lại những quân xâm lăng lại được nhà nước xây đài lập bia tưởng niệm, mà họ cũng không dám nói lên tiếng nói của một người đã từng lấy máu xương mà bảo vệ tổ quốc. Hay khi thấy nhân dân oằn mình vì cuộc sống tang thương và nô lệ, những “trí thức” trong các cái nơm, trong cái giỏ kia cứ bình thản tọa hưởng cơm no áo ấm, nhà cao bổng lộc, lo giữ lấy sổ hưu là mồ hôi nước mắt của người dân là đủ. Mà nào có phải chỉ là an nhiên hưởng lộc, nhưng còn đồng lõa bằng nhưng tuyên bố vô ý thức, không trách nhiệm, ngõ hầu hỗ trợ tập đoàn cộng sản tiếp tục áp bức, khống chế toàn dân bằng chế độ thông tin khắc nghiệt, phản nhân tính kiểu tin đồn và tin bịt mắt, bịt miệng từ 80 năm qua.
A. Vai trò của Thông Tin
Một định nghĩa nhỏ: Nếu xe cộ là những phương tiện tốt để di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Hoặc giả, là những phương tiện đưa người ta đến những nơi họ muốn, hoặc không muốn. Theo tôi, Thông Tin là những chuyến xe đem đến cho con người những niềm vui, hạnh phúc, an bình, thịnh đạt… hay là những nỗi tang thương, bất hạnh, máu và nước mắt! Đơn giản hơn, Thông Tin là những động cơ làm hoán chuyển, làm thay đổi cuộc sống không phải chỉ của một nhóm người, nhưng là toàn xã hội. Nó chính là chìa khóa mở của cuộc sống.
B. Các chế độ thông tin dưới thời cộng sản
1. Chế độ tin đồn. 
Chuyện kể rằng: Sau ngày khua chiêng đánh trống, dốc toàn lực nhân khẩu trong làng ra đình làng để chào đón đoàn quân chiến thắng trở về, người nào không mừng thì cũng phải giả cười toe toét kẻo bị cán bộ điểm mặt như những buổi học tập về phương cách đón đoàn quân trước đó. Đến hôm sau, cờ quạt biến hết, người trong làng đi ra đi vào như những bóng ma di động giữa ban ngày. Lỡ gặp nhau trên đường, chẳng ai buồn mở miệng chào hỏi thăm nhau đôi câu. Đã thế, còn có đôi mắt như dò xét và tránh né nhau. Đây là câu chuyện bất thường của An Thái chăng?
Không, đây không phải là chuyện bất thường mà nó là cuộc khởi đầu cho một nếp sống mới dưới thời cộng sản. Lúc này, từ làng trên đến xóm dưới, không một ai biết được là tương lai sinh mệnh của làng, của bản thân hay của gia đình mình sẽ ra sao. Tất cả đều nhìn nhau qua những bản tin đồn. Mỗi người nghe được một mẫu tin khác nhau, chẳng biết thật hư thế nào. Cùng góp lại mà run. Bên Hành Thiện, Lục Thủy đã bắt đầu mở hội múa dao, đấu tố. Rồi Thái Bình, Hải Dương nối gót theo sau… Cuộc đấu rất là gay gắt. Nghe nói những người từng là chánh tổng, lý trưởng giàu có đã bị đấu chết và xác còn để nằm phơi ngoài đồng. Phần nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, ao cá, trâu bò đều bị tịch thu. Vợ con họ thì được tự do, muốn ra ngoài đồng hay xuống chuồng trâu cho qua ngày thì tùy ý, nhà nước không cần bận tâm. Bởi lẽ, bác và đảng đã có chủ trương đánh đổ giai cấp, dẹp luôn tôn giáo, đình chùa, nhà thờ, nên Trí Phú Địa Hào phải đào tận gốc trốc tận rễ!
Từ đó, những bản tin đồn cứ vùn vụt tung ra. Nay làng này, mai tổng khác, chỉ toàn là những tin tức về đấu tố và hành quyết giết người, không có lấy một bản tin nào khác, càng làm cho đời sống của người dân thêm lặng lẽ trong sợ hãi. Đến khi chính mắt họ được nhìn thấy những người ngồi ghế quan tòa, chánh án là vỡ mật. Bởi lẽ, rặt là một phường bất hảo, đâm cha chém chú, đầu trộm đuôi cướp, cu trâu cu bò nổi tiếng trong vùng. Nay được bác đảng kết nạp, rồi trao cho cái búa để ra làm quan. Kết quả, quan cán một chữ không biết, nói chi đến đạo lý, nên những người lương thiện khó thoát nạn là điều dĩ nhiên. Phần nạn nhân, chỉ không ngờ là đời họ lại phải chết vì cái bác đảng phản phúc ấy.
Gọi là đảng phản phúc là vì hầu như không có một người nào bị chúng giết mà đã không tham gia, đóng góp công sức, tiền của, gạo thóc cho cuộc gọi là kháng chiến đánh Tây. Có gia đình còn đóng góp cả máu xương của bản thân hay con cái, người thân của mình để giúp chúng cướp chính quyền ở trung ương hay địa phương. Kết quả, họ gánh lấy họa xát thân chỉ vì HCM đánh giá đây là thành phần dân tộc yêu nước. Sẽ là một lực lượng đối kháng mạnh mẽ nhất, hoặc là kẻ thù không đội trời chung với cộng sản. Kế đến, với HCM, có đánh Tây, chống Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu, chứ không phải đánh cho Việt Nam, nên không cần thành phần dân tộc yêu nước này. Theo đó, HCM đã “tiên hạ thủ vi cường” hạ xát đối thủ là những nông dân, bằng sách lược hoa mỹ “cải cách ruộng đất” để tiêu diệt tận gốc lực lượng hùng hậu này sau khi cướp được chính quyền. Từ đây, đời sống nông thôn không còn cấp lãnh tạo tại địa phương, họ phải bám víu vào đảng, vào bác, vào cái búa cái liềm trong tay những kẻ bất hảo vừa nên quan, thay vì sống theo tình nghĩa đồng bào, theo tập quán, lệ làng vốn có từ lâu đời sau lũy tre xanh.
Nay đến An Thái, nhưng chẳng còn là an bình, thái hòa một tý nào. Trái lại, người người nhìn nhau bằng đôi mắt trắng với những nhịp tim đập loạn trong lồng ngực. Bởi vì bản tin đã truyền đi. Mỗi tối họ phải tham gia những buổi học tập cách đấu tố giết người. Phải học làm sao cho thật nhuần nhiễn. Ai chưa thuộc, không đủ tự tin kể tội những người từng làm ơn cho mình trước kia thì phải chỉ tay vào cái gốc mít, gốc khế, cái cột, mà xỉa xói, lập đi lập lại những lời của bác, của đảng dạy cho thuộc lòng, hòng khi tới lân ra đấu thì không bị vấp.
Họ được học cách đấu bằng những lời gian dối đến nỗi những gốc cây vô tri còn có thể bị chết đứng, nói chi đến con người như: “mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo….” Tất cả phải được nhuần nhiễn từ cử chỉ cho đến lời nói… đến nỗi một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị chăm sóc hằng ngày. Chị nói với bố “ông có biết tôi là ai không?”. Người cha ngậm ngùi nhìn đứa con rứt ruột của mình và nói: “thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ” (chứng từ của một Giám Mục, trang 383). Những chuyện này, nếu bạn là người dưới 40 tuổi, ít có dịp giao tiếp với những sách vở trước kia ở trong nam hay ở hải ngoại, bạn có thể cho rằng người viết cũng như những phần trích trong cuốn sách kia là không có thật, là giả dối. Tôi xin trân trọng xác định bằng tất cả những hiểu của tôi, đó là những sự thật mà người dân Việt đã phải trải qua. Sự thật như câu chuyện tôi được nghe bà cô kể lại là:
- Bà Đội ơi!
Tiếng bà Mõ Ba lao vào trong nhà trước khi cái bóng của bà hiện diện. Bà đội Lộc vừa mới ngả lưng xuống trên cái phản gỗ, hốt hoảng ngồi bật dây. Ngoài trời tối như mực. Trong nhà, cây đèn dầu vặn nhỏ hết cỡ không đủ soi sáng cho từng khuôn mặt hiện diện.
- Chúng nó lại giết người nữa rồi.
- Ai thế hả bà?
- Ông cai Đáng, bố của thương binh Được. Bà Mõ Ba nói đứt quãng;
- Sao lại như thế?
- Có mà giời biết! Toàn là người mình thôi. Mấy hôm trước là ông Lý Túc, bố của liệt sĩ Chiến, rồi đến ông Tổng Huỳnh, người được tiếng tốt lành trong cả tổng, nhà chỉ có năm sào ruộng vài con trâu, lại là bố của Liệt Sĩ Tự cũng đã bị đấu chết. Khi đấu, họ phao tin đây là những “cường hào ác bá”, là cai đội của lính trong đồn Tây, là người có nợ máu với nhân dân. Thật may là ông cố và ông Đội nhà…
Bà Mõ ba lỡ lời, chợt ngưng lại. Bà đội Lộc như đọc rõ được câu nói dang dở của người đối diện. Bà chẳng lo phần mình, bà nhớ đến Được, người thương binh đã mất một cánh tay và một cái chân quá gối, tự nhiên nước mắt chảy lăn trên má. Bà muốn khóc mà chỉ nghe tiếng nấc nghẹn trong lòng. Bà còn nhớ rõ, sau ngày đón binh trở về, Được chống gậy đến thăm bà. Được kể lại từng chi tiết lúc ông Đội Lộc ra đi và chôn cất ông thế nào. Bà đã xót xa vì câu chuyện, đến khi nhìn lại cảnh tàn tật của người thanh niên ngoài 20, bà không cầm được nước mắt. Hôm ấy, bà đã dốc túi cho anh cái nhẫn độ chỉ vàng, như để cám ơn việc anh đã chôn cất chồng bà. Lúc đầu binh Được không nhận, bà phải nói mãi anh mới vâng mà cầm lấy. Bà những tưởng, nhờ tấm bảng ghi công anh sẽ được yên ủi đôi phần. Nào ngờ có sự thể như hôm nay. Bà cũng nhớ đến ông Cai Đáng, người trước kia ra làm việc với bố chồng của bà… Bà run lên từng chập, không dám nghĩ gì thêm.
- Đúng là quân gian ác, ăn cháo đái bát bà ạ. Chúng đấu người là cường hào ác bá. Mà cường hào ác bá chẳng giết ai. Phần chúng thì bảo là cách mạng mà thật ra là gian ác gấp trăm ngàn lần cường hào ác bá. Bà xem, chả thấy chính quyền nào ép dân đấu tố nhau như thế bao giờ. Chả thấy chính quyền nào buộc dân phải gian dối, vô đạo, bất nhân, bất nghĩa bằng những hành động trái luân thường đạo lý như ra lệnh cho con đấu cha, vợ đấu chồng, anh em, hàng xóm đấu nhau như bây giờ! Thời vô phúc thế mà họ lại bảo là đỉnh cao trí tuệ của bác và đảng đấy!
Tai bà đội Lộc như ù hẳn đi, bà chả còn thiết nghe chuyện gì.
- Nhưng khéo mà binh Được cũng chết với chúng nó bà đội ạ?
- Sao thế? Bà đội Lộc thảng thốt hỏi lại,
Bà Mõ ba, ghé xát bên tai bà đội Lộc: Nghe ông Mõ nhà tôi bảo là binh Được còn giữ hai quả lựu đạn, đang ngồi trong phòng ủy ban, chờ đội về nói chuyện.
Câu chuyện còn dở, có tiếng gió đập mạnh ngoài cửa. Một tiếng nổ như sấm vang dội xóm thôn. Bà Mõ ba thét lên, ôm chặt lấy cái đầu. Sáng hôm sau, có tin đồn toán đi gỡ mìn sau chiến tranh, bất ngờ gặp tai nạn. Rồi chẳng còn ai nhìn thấy thương binh được và chủ tịch ủy ban đâu, nhưng có đội đấu khác được điều về làng sau đó…
Về phần nhà nước. Nhờ đỉnh cao trí tuệ của “bác và đảng”, mà từ sau ngày cướp được chính quyền, chế độ tin đồn, tin bịt mắt đã hoàn toàn bao phủ trên miền bắc. Nó đã là định chuẩn cho cuộc sống của người dân. Nó trở thành một mệnh lệnh, được tụng ca từng giờ từng phút, từ ngày này qua ngày khác để biến thành một mệnh lệnh mà mọi người phải tuyệt đối tuân thủ, dù chấp nhận hay không chấp nhận nó. Nó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của con người. Từ hy vọng sang thất vọng. Từ an vui, sang lo lắng. Từ ưu tư ra sợ hãi. Từ hăng hái tích cực thành thụ động. Từ tử tế ra lưu manh rồi đẩy nhau đi làm nô lệ (những đoàn đảng viên Việt cộng cũng không có ngoại lệ) cho một chủ thuyết vô luân ly là duy vật biện chứng. Nói toạc ra rằng làm nô lệ cho chủ thuyết cộng sản do HCM mang vào.
Chính cái chủ thuyết này đã khai tử giai cấp Sĩ Phu của Việt Nam để dần thay thế vào đó là một giai cấp nô lệ mới dưới sự hướng dẫn thông tin kiểu bệnh hoạn của Tố Hữu: “Thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương một thương ông thương mười” (khóc Stalin). Hoặc là, “tiếng đầu đời con gọi Stalin”. Hoặc giả, “bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giối cũng là quê hương”. Nhờ hệ thống Thông Tin mù lòa, thứ văn hóa đấu tố cha mẹ tổ tiên này được áp dụng triệt để, và đạt thành công rực rỡ mà nay, Hoàng Sa, Trương Sa, Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm, Quỷ Môn Quan… là đất người thì cũng chẳng có gì lạ! Và ở nơi đó, con người không còn bất cứ một thứ quyền nào của con người. Tất cả chỉ còn lại là sự ban phát, ra ơn từ nhà nước, mà cũng chẳng có một “trí thức” nào dám lên tiếng phản đồi, ngoại trừ một vài vị tu hành trở thành nỗi cô đơn của thế kỷ. Hay năm bảy sức trẻ, dăm ba nhà báo hăng say bị trấn áp, bị đấy vào chốn lao tù là… chấm chấm…!
Như thế, cuộc sống còn đó, nhưng là đã chết. Bởi vì với chế độ thông tin tin đồn được CS áp dụng triệt để trên đất bắc lúc trước, người dân không còn được nghe biết đến bất cứ một loại tin tức nào khác từ phía bên ngoài. Ngay những người có thân nhân vào nam, cũng phải tự nguyện cắt đứt mối giây liên lạc với người ra đi, hơn là nhận lấy thảm họa cho gia đình. Cà làng, cả tổng, cả xã, chỉ có một cái đài để phát đi những tin tức gian trá, lừa bịp của nhà nước qua hệ thống loa rỉ xét, hay những cái loa mồm không tim óc. Những người lớn tuổi, không muốn nghe thì giả điếc. Đến khi mở mắt ra lại chứng kiến nhiều cái chết tang thương. Thôi, đành ngậm miệng lại cho qua ngày. Riêng những lớp tuổi còn nhỏ, nghe từ khi lọt lòng mẹ cho đến 40-50 tuổi, bảo với họ là Hồ chí Minh có nhiều vợ. Vợ Tây, vợ Tầu, vợ ta có cả. Họ sẽ bảo bạn là thằng điên! Nếu bảo HCM là tên tội đồ buôn dân bán nước, coi chừng bạn mất mạng! Đó là kết quả vĩ đại nhất của chế độ tin đồn.
2. Chế độ tin bịt mắt. 
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào: