Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới. |
Đào Như
- OAK PARK, ILLINOIS—
Sau 38 năm kết thúc cuộc chiến và 18 năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tầm nhìn của hai kẻ cựu thù Việt, Mỹ đôi khi không nhìn chung về một hướng. Mãi đến năm 2011, trong chiều hướng của chủ thuyết “Thế kỷ Châu Á Thái Bình Dương Của Mỹ” của Ngoại trưởng Hillary Clinton, Tổng thống Obama lần đầu tiên nhìn nhận Việt Nam là một đối tác đáng tin cậy của Mỹ tại Đông Nam Á trong chiến lược Mỹ trở lại Châu Á Thái Bình Dương, nhất là Đông Nam Á.
Sau những biến đổi tồi tệ về tình hình khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông do Trung Quốc tạo nên, đe dọa tác hại đến lợi ích quốc gia của Mỹ tại khu vực này, Tổng thống Obama chủ động mời Chủ tịch Nước Việt Nam Trương Tấn Sang qua Washington để thảo luận vào ngày 25/7/2013 về tình hình khu vực Biển Đông với hy vọng nâng cao quan hệ Việt-Mỹ lên tầm đối tác toàn diện.
Theo thông cáo chung sau cuộc gặp lịch sử này, ”Tổng thống Obama và Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang quyết định xác lập đối tác toàn diện trong quan hệ Mỹ-Việt.” Mối quan hệ này được thiết lập trên một số cơ chế hợp tác trong nhiều lãnh vực khác nhau, trong đó có quan hệ chính trị-ngoại giao, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, du lịch và thể thao, kinh tế và mậu dịch, an ninh và quốc phòng, nhân quyền…
Phần nhiều những mối quan hệ này - kể cả quan hệ ngoại giao-chính trị - dễ dung hòa, vì cả hai bên Mỹ-Việt đều sẵn sàng quên đi những hệ lụy chiến tranh giữa 2 nước trong quá khứ để cùng nhau hướng đến lợi ích chung. Nhưng vì những khác biệt về điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa và kinh tế giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay, những mối quan hệ về nhân quyền, an ninh-quốc phòng, và kinh tế-thương mại, nhất là vòng đàm phán về vấn đề Việt Nam gia nhập TPP, vẫn còn nhiều trở ngại và thử thách.
Từ cuộc họp thượng đỉnh Washington hôm 25/7/2013 cho đến nay, hai bên thường xuyên trao đổi về những biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện cũng như tăng cường phối hợp các tiến trình đàm phán TPP. Các viên chức cao cấp của hai bên tiếp tục điện đàm, thường xuyên đi lại giữa Hà Nội và Washington để thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện.
Ngày 14-3-2014, theo đề nghị của phía Hoa Kỳ, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã điện đàm với Chánh Văn phòng Tòa Bạch Ốc, đại diện Tổng thống Obama, ông Denis McDonough, nhằm thúc đẩy việc kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện Việt-Mỹ. Nội dung của cuộc điện đàm này cũng không có gì mới lạ, không đạt được tính đột phá. Có chăng đó là câu nói có vẻ hứa hẹn một cái gì đó từ phía Hoa Kỳ: “Hiệp hội TPP sẽ dành sự linh hoạt thỏa đáng đối với các thành viên đang phát triển, như Việt Nam…” Nhưng Chánh Văn phòng Tòa Bạch Ốc Denis McDonough không nêu rõ ý nghĩa cụ thể của cụm từ “linh hoạt thỏa đáng” là như thế nào? Gồm có những gì? Vòng đàm phán TPP vẫn còn nhiều gai góc, không thỏa mãn được Tòa Bạch Ốc đang thật sự mong muốn vòng đàm phán này sớm chấm dứt trước cuối năm 2014.
Ngày 14/7/2014, ông Evan Medeiros, cố vấn đặc biệt của Tổng thống Obama, đến Hà Nội với mục đích thúc đẩy Việt Nam về các vấn đề liên quan đến đàm phán TPP và Biển Đông. Điều đáng chú ý là sứ mệnh của ông Medeiros rất bao quát và rộng lớn: kết hợp hai vấn đề to lớn là việc Việt Nam gia nhập TPP và an ninh Biển Đông.
Trước đây Mỹ chỉ đòi Việt Nam muốn được gia nhập TPP phải có tiến bộ về nhân quyền. Bây giờ thì lại kèm theo an ninh BIển Đông. Nghĩa là muốn gia nhập TPP, ngoài điều kiện phải có tiến bộ về nhân quyền, Việt Nam phải phối hợp quân sự với Mỹ để chống trả ý đồ xâm lăng của Trung Quốc tại Biển Đông. Mặc dầu không nói ra, ai cũng hiểu đó là liên minh quân sự với Mỹ. Vì vậy khi đến VN, mục đích chủ yếu của ông Medeiros là gặp Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Tướng Vịnh lúc nào cũng “yểm” sẵn “Chính sách Quốc phòng 3 không”, nhất là điều thứ 3: “Việt Nam không liên minh quân sự với bất cứ quốc gia nào để chống lại một quốc gia khác”. Do đó ông Medeiros đã không đạt được sự hợp tác của Tướng Vịnh như Tòa Bạch Ốc mong muốn.
Tiếp theo đó là chuyến công du Hoa Kỳ của ông Phạm Quang Nghị ngày 21/7/2014, chuyến đi đánh dấu một lần nữa tầm quan trọng trong việc thúc đẩy kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Phạm Quang Nghị là Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị, được xem như là người sẽ kế vị Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong tương lai. Mục đích chủ yếu của chuyến công du của ông Nghị là thay đổi quan điểm của dân chúng và Quốc hội Mỹ xưa nay thường cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam thiên về Trung Quốc và chống lại Mỹ.
Đây là biểu hiện cho thấy quan hệ Việt-Mỹ đang đi vào một giai đoạn mới và tích cực. Tại Mỹ ông Nghị đã tiếp xúc với các Thứ trưởng Ngoại giao Wendy Sherman, Phó cố vấn An ninh Quốc gia Tony Blinken, Chủ tịch tạm quyền Thượng viện Patrick Leahy và Thượng Nghị sĩ John McCain. Trong các cuộc tiếp xúc này, ông Phạm Quang Nghị đã thông báo về tình hình và chính sách đối ngoại của Việt Nam và khẳng định Đảng và Nhà Nước Việt Nam coi trọng và không ngừng thúc đẩy quan hệ hợp tác với Mỹ trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Hai bên cũng đề cập đến tình hình dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Hiệu quả của chuyến công du Mỹ của ông Nghị là phần nào làm cho nhân dân và chính phủ Mỹ thấy rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang dần dần rời bỏ Bắc Kinh và hướng về Washington. Nhưng dường như sự xoay chiều này của Đảng Cộng sản Việt Nam không đủ để thỏa mãn Quốc hội Mỹ.
Ngày 29/7/2014, Dân biểu Cộng hòa Frank Wolf gửi một bức thư với chữ ký của 32 Dân biểu khác cho Tổng thống Obama mạnh mẽ khuyến cáo Quốc hội Mỹ không cho Việt Nam gia nhập TPP nếu Hà Nội không thay đổi đáng kể về mặt nhân quyền, cải tổ luật pháp phù hợp với luật bảo vệ lao động, và Chính phủ Hà Nội phải theo đuổi thể chế dân chủ pháp quyền.
Cũng nên chú ý, trong tháng 7 vừa rồi Quốc hội Mỹ đã thông qua hai dự luật quan trọng có lẽ cũng nhằm thúc đẩy mối quan hệ Đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Đó là Dự luật cho phép Mỹ hợp tác và giúp đỡ Việt Nam xây nhà máy hạt nhân dân sự tại Việt Nam và Dự luật giải tỏa các lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN
Đầu tháng Tám này, cố vấn cấp cao của Tổng thống Obama, Thượng Nghị sĩ Bob Corker, đã đi thăm Hà Nội và tiếp xúc với các yếu nhân Việt Nam cũng không ngoài mục đích thúc đẩy kiện toàn quan hệ đối tác toàn diện và thúc đẩy tiến trình đàm phán TPP. Trao đổi với ông Bob Corker hôm 5-8, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã “kêu gọi Quốc Hội Mỹ thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế, đầu tư thương mại song phương, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập TPP và ủng hộ một giải pháp ôn hòa cho vấn đề Biển Đông…” Đúng là ông Sang chỉ lập lại những gì ông đã phát biểu trong cuộc gặp với Tổng thống Obama tại Tòa Bach Ốc hồi năm ngoái (ngày 25/7/2013).
Trong một thông báo tại Hà Nội, Thượng Nghị sĩ Bob Corker nói rõ quyết tâm của Chính phủ Mỹ sẽ kết thúc vòng đàm phán TPP trong vòng từ ngày 12 đến ngày 18 tháng tới - nghĩa là thời khoản dành ưu tiên cho Việt Nam gia nhập TPP còn rất ngắn. Phải chăng ông Corker đang chuyển thông điệp của Tòa Bạch Ốc đòi Việt Nam phải gấp rút cải thiện nhân quyền nếu không muốn bỏ mất hoàn toàn cơ hội gia nhập TPP?
Tuy nhiên, một ánh sáng vừa le lói ở cuối đường hầm TPP: Trong chuyến công du Việt Nam mới đây, Thượng Nghị sĩ John McCain đã tuyên bố hôm 8/8/2014 tại Hà Nội rằng “đã đến lúc Washington nên nới lỏng lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, vì Hà Nội đã có tiến bộ về nhân quyền như việc thả một số nhà bất đồng chính kiến và cởi mở hơn trong vấn đề tôn giáo”. Về phần mình Thượng Nghị sĩ Sheldon Whitehouse cho rằng việc nới lỏng sẽ xảy ra từng giai đoạn, nhưng nó có thể tiến nhanh hơn.
Ông McCain cũng hứa hẹn “Mỹ sẽ có tư duy và hành động mới trong quan hệ với Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng kết thúc vòng đàm phán TPP và làm việc với Việt Nam nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn để được Mỹ công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường”. Thượng Nghị sĩ McCain nói thêm: ”Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự và tăng các chuyến viếng thăm của tàu chiến đến mức mà Việt Nam cho phép, không phải bằng cách thiết lập căn cứ, điều mà chúng tôi không có ý định, mà bằng các thỏa thuận giữa hai nước…Chúng tôi cũng sẵn sàng hỗ trợ an ninh để giúp Việt Nam cải thiện khả năng nhận thức về lãnh hải và xây dựng năng lực bảo vệ chủ quyền…”(1)
Dĩ nhiên thật là lạc quan cho những ai được nghe những gì Thượng Nghị sĩ John McCain vừa nêu lên tại Hà Nội hôm 8-8-2014 về những ưu tiên mà chính phủ Mỹ dành cho VN trong tiến trình gia nhập TPP và trong việc kiện toàn và phát triển quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng đó mới chỉ là phát biểu của Thượng Nghị sĩ John McCain chưa được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua và cũng chưa đem ra đàm phán với phía Việt Nam. Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay đã xoay chiều, hướng về Washington, điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẵn sàng quay nòng súng 180 độ để đánh trả Trung Quốc nhằm bảo vệ Biển Đông.
Cho nên vấn đề liên minh quân sự với Mỹ vẫn còn là một mục tiêu khó đạt tới đối với Việt Nam, nhất là khi họ đã quyết tâm bảo vệ “Chính sách Quốc phòng 3 không” của họ. Với chính sách này, Việt Nam đã thành công giải quyết trong hòa bình những xung đột trên Biển Đông. Cụ thể là việc Trung Quốc rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển đặc quyền kinh tế của VN sớm hơn 1 tháng trước thời hạn do Trung Quốc ấn định.
Do vậy thật khó lượng định quan hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam hiện nay đang ở đâu.
GHI CHÚ VỀ NGUỒN
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét