Trên Báo Tổ Quốc có phổ biến bài viết về vụ án của nhà cách mạng Phan Bội Châu do thực dân Pháp xử cách đây 86 năm do một người ở trong nước ký tên là Hải Hồ (*), gửi đến blog của tiến ông NguyenXuanDien. Xin trích đăng phần biện hộ của cụ Phan Bội Châu, như sau:
“…Cụ Phan đã tự biện hộ như sau (tóm tắt):
Nước Nam là một nước chuyên chế, người dân Nam từ lâu rất khổ cực. Những tưởng mở mày mở mặt” khi người Pháp sang bảo hộ, ai ngờ từ đó đến giờ đã hai chục năm mà chính sách không hề thay đổi. Đó là lý do Cụ buộc phải chống lại chính quyền đô hộ Pháp. Cụ nói:
“Tôi là người nước Nam, tôi biết yêu nước Nam, muốn thức tỉnh dân tộc Việt Nam, thấy thế nên sinh ra cái tư tưởng phản đối chính trị. Nếu trong tay tôi có mấy vạn hải quân, mấy mươi vạn lục quân, binh tinh, lương túc, súng đạn đủ nhiều thì có lẽ tôi hạ chiến thư, đường đường chính chính đánh lại chính phủ thật đấy. Thế nhưng tôi là một kẻ thư sinh, túi không có một đồng tiền, tay không có một tấc sắt, không lấy võ lực mà phản đối lại được, vậy tôi chỉ dùng văn hóa, nghĩa là trước thư lập ngôn để cổ động nhân dân, yêu cầu Chính phủ cải lương chính trị. Chẳng dè Chính phủ ngờ vực tôi, bắt tôi, tôi phải trốn ra ngoại quốc để hành động cho đạt mục đích của tôi”.
Về phương pháp, Cụ chỉ nhận mình hoạt động tuyên truyền, không nhận mình chủ trương bạo động. Cụ nói: “Tôi có chiêu tập các bạn đồng chí, gom tiền, gom sức, phái người đi du học, và làm sách làm vở gửi về cho nhân dân. Việc làm của tôi là dùng cái lưỡi và ngọn bút, mục đích của tôi là cải lương chính trị, sở chí của tôi là thương dân yêu nước, cử động của tôi là chính đại quang minh. Nếu tôi là người có tội, thì tôi chỉ có bốn tội sau này:
1. Chính phủ sang bảo hộ nước Nam, không ai phản đối mà một mình tôi phản đối, lại muốn cho nước Nam độc lập.
2. Nước Nam xưa nay là chính phủ chuyên chế, mà tôi muốn cho nước Nam thành ra là một dân quốc.
3. Nhà nước cấm không cho người đi du học ngoại quốc, mà tôi trốn đi và rủ người đi ngoại quốc.
4. Tôi trước thư lập ngôn để cổ động dân Nam thức dậy, yêu cầu Chính phủ cải lương chính trị, làm hết cái thiên chức khai hóa của mình”.
Ông Chánh án lại vặn hỏi:
− Cụ phản đối chính trị của Chính phủ bảo hộ, hay là chính trị nước Nam?
“Tôi muốn phản đối chính trị của Chính phủ bảo hộ, còn như nước Nam có nước đâu mà có chính trị cho tôi phản đối”.
“Ấy, tội tôi chỉ có thế, Chính phủ chiếu luật gia hình, bắt tội tôi thế nào, tôi cũng xin chịu, còn những điều trong cáo trạng buộc tội tôi thì tôi không nhận điều nào cả”.
Cụ nói tiếp: “Tôi đâu có làm những việc ám muội như toà đã tố cáo. Tôi ở Trung Kỳ ra đây năm 1905, rồi bỏ đi ngoại quốc, tôi chưa từng về nước lần nào”.
“Thấy đồng bào ngủ say, tôi rung chuông cho đồng bào thức dậy, nhưng vì dậy vội quá, thần hồn nát thần tính, làm những việc bạo động, thì cái đó không phải lỗi ở tôi”
“Tôi cổ động là cổ động cho đồng bào biết hợp quần, biết ái quốc, biết yêu cầu cải lương chính trị, chớ có cổ động nhân dân làm loạn đâu? Vả lại nếu là kẻ có ý muốn làm loạn thì tôi cứ ở ngay trong nước theo Đề Thám cũng có thể làm được, có cần gì phải bỏ vợ bỏ con, bỏ nhà bỏ cửa mà trốn đi ngoại quốc làm gì? Năm 1913 tôi nghe tin buộc tội tôi vào tội tử hình thì tôi vẫn đi lại ở ThượngHải, có sợ gì đâu, vì tôi biết là tôi vô tội”.
Ông chánh án nói:
− Hội đồng Đề hình chỉ xét lại cái án năm 1913 xử vắng mặt Cụ vào tử hình mà thôi, còn việc từ năm 1913 về sau thì không cần nói đến; vậy những tội kia Cụ có nhận hay không thì nói.
Cụ đáp:
− Tôi chỉ nhận có bốn tội như tôi đã nói, ngoài ra tôi không có tội gì khác.
2. Buổi chiều là cuộc tranh luận. Chánh án Bride tiếp tục phân tích tội trạng của Phan Bội Châu. Ta thấy chính quyền thuộc địa Pháp nắm rất rõ từng hoạt động của Cụ Phan, kể từ khi chiêu tập bạn đồng môn định khởi nghĩa ở Nghệ An lúc còn là anh học trò nghèo vô danh, đến việc viết Lưu Cầu huyết lệ tân thư cổ động danh sỹ và nhân dân đánh Pháp, ra Bắc vào căn cứ Hoàng Hoa Thám, rồi vận động Cường Để và thanh niên xuất dương (phong trào Đông du), rồi qua lại với Tôn Thất Thuyết, với Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông, việc cầu cứu Xiêm, Đức như thế nào,… Điều đáng chú là: Trong các chứng cứ kết tội, Chánh án Bride chỉ lướt qua hoạt động thuộc về tuyên truyền trong một nửa câu: “Bao nhiêu sách cụ viết ra toàn truyền bá cái tư tưởng cừu thù người Pháp…”. Các tội của Cụ là theo cáo trạng cũng như trong phân tích của Bride là nằm ở những hành động sai người đánh bom và kêu gọi làm loạn.
Cụ Phan tiếp tục tự bào chữa. Cụ thừa nhận tất cả các hoạt động tuyên truyền của mình và kết luận: “Trước sau tôi vẫn chủ trương chỉ dùng văn hoá mà phản đối chính trị, văn hoá không xong thì tôi mới dùng đến võ lực. Chính trị còn một ngày bất lương, tôi còn một ngày phản đối”. Còn các cuộc bạo động, cụ coi mình chỉ trách nhiệm “phân nửa”, nghĩa là xét riêng về mặt luân lý thôi, như anh không biết dạy em, để em phạm tội, bố không biết dạy con, để con phạm tội, chứ về mặt pháp luật, không thể là tội của anh, của bố.
Hai trạng sư người Pháp (do chính Toà cử) không những bênh vực cụ Phan mà còn tố cáo thực dân Pháp và công khai bày tỏ lòng cảm mến cụ Phan.
Trạng sư Larre nói: “Cái lịch sử của cụ Phan là cái lịch sử chính sách thuộc địa của nước Pháp ở Đông Dương trong 25 năm gần đây. Cụ là một người theo chủ nghĩa đảng cách mạng, động lòng trắc ẩn, nặng tình yêu nước thương nòi. Lại bị kích thích bởi những điều hà ngược của một triều đình chuyên chế, những điều nhũng lạm của phường tham quan ô lại; việc học thì chậm chạp, hình pháp lại dã man, nhân dân trong nước biết bao nỗi ê chề, đau đớn”. Trạng sư kết luận: “Cụ là người thuần khiết trong những người thuần khiết”, “Cụ vĩ đại hơn hết thảy những người trong dân tộc Việt Nam”.
Trạng sư Bona còn mãnh liệt hơn. Mở đầu đã là những lời ca ngợi nhiệt thành:
“Tôi cảm ơn Hội đồng đã cho tôi tám ngày để xem xét 300 bản hồ sơ. Công việc của tôi là rất khó, rất lấy làm nặng nề, nhưng tôi cũng rất là thoả mãn vì đã được cãi hộ một người mà tôi hâm mộ”.
“Cụ Phan là người quả không hổ là kẻ ái quốc chân chính. Dẫu tôi là người Pháp, đối với cụ Phan, tôi cũng phải hâm mộ. Tôi hâm mộ là hâm mộ cái thân thế quang minh, cái tính tình cao thượng, cái nghị lực bất di, bất khuất, đã từng tỏ ra trong các việc làm của đời Cụ”.
Trạng sư Bona lược lại cuộc đời cách mạng đầy hăng hái và đúng đắn của cụ Phan. Với các hành động mà ngày nay gọi là “quá khích”, Trạng sư cho rằng: “Ở Tàu, Cụ có những bạn đồng chí, hơn Cụ về lòng nhiệt thành, nghĩa là hơn Cụ về sự cuồng dại, và người ta đã buộc cho Cụ những tội của các tay đồng chí ấy. Người ta lấy những giấy thông tư của các toà lãnh sự, những toà sứ thần ra làm bằng chứng, trong những thông tư ấy lại đầy những tin tức của các tay do thám, nghĩa là những tay chỉ biết hám tiền, tìm đủ mọi phương sách buộc tội người để ních cho chặt túi”.
Với những hành động mà ngày nay ta gọi là “đánh bom liều chết” hay “khủng bố” có liên quan đến cụ Phan, Trạng sư Bona bác bỏ với lý do:
“Bảo rằng có những lời cung khai của những kẻ can phạm trong năm 1913 ư? Bao nhiêu trách nhiệm đều muốn đổ cho một người vắng mặt, vì người đó không thể chống cãi được, cái đó là thói thường của thiên hạ… Bảo rằng Cụ đã gây ra những sự nhiễu loạn về chính trị ư? Cụ chỉ là một kẻ đã gieo hạt giống mà thôi. Những hạt giống ấy gặp gió đưa đi, thì Cụ biết đâu được sự sinh mầm kết quả”.
Kết luận, Trạng sư nói: “Cái lý tưởng của cụ Phan, nói tóm lại, là muốn đem đến một tinh thần mới mà sửa đổi lại chính trị ở nước mình”. Theo Trạng sư, tinh thần ấy hoàn toàn phù hợp với lời của Toàn quyền Varenne (vừa được bổ nhiệm) đọc tại Auvergne: “Nếu cái chính sách của ta ở Đông Dương không kịp đem đến một tinh thần mới là cái tinh thần hoà bình, công chính, cải lương mà sửa đổi lại, thì chỉ nay mai là gặp những biến động chẳng khác gì ở Maroc. Xem một câu ấy thì biết được ông Toàn quyền Varrenne với cụ Phan Bội Châu, nếu có ngày gặp tất tâm hợp ý đầu”.
Cụ Phan đứng lên nói thêm:
“Tôi cảm ơn Hội đồng đã đem tôi ra trước mặt công chúng xét xử, lại cử hai trạng sư biện hộ. Giá với chính thể Nam triều (triều đình Huế – HH) thì nguyên một tội phản đối cũng đủ đáng chết còn làm gì có trạng sư cãi hộ, và cũng còn đầu đâu để ra trước Hội đồng”.
3. Kết thúc, Toà tuyên phạt cụ Phan: trong tám tội có một tội đáng tử hình, các tội còn lại đáng khổ sai chung thân, nhưng Toà lượng thứ, kết phạt “khổ sai chung thân”. Cụ Phan vẫn nhất định không nhận và chống án. Toà chấp thuận và đưa vụ án lên Hội đồng Bảo hộ. (Vụ án kết thúc lúc 9 giờ tối)”.
*
Theo bài viết, thì sau đó thực dân Pháp đã ân xá cho nhà cách mạng Phan Bội Châu. Và theo tác giả Hải Hồ thì thực dân Pháp có lợi hơn nhiều khi ân xa cho cụ Phan Bội Châu. Không biết tác giả có ý khuyên khéo VC hay không?
Theo bài viết thì lúc bị thực dân Pháp xử án, cụ Phan Bội Châu đã già (60 tuổi). Lúc bị VC xử án, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ cũng không còn trẻ gì (trên 50 tuổi là cái tuổi tri thiên mệnh).
Theo tôi, qua 2 bản án, thực dân Pháp (68 năm trước) còn văn minh và nhân đạo hơn cộng sản Việt Nam (bây giờ) nhiều!
Những lời biện hộ của cụ Phan Bội Châu cũng như của Tiến sĩ CHHV phải nói là rất hùng tâm, tráng khí!
Chuyện lạ, theo tôi, là hình như có một số người muốn hạ giá (hoặc đánh giá sai) việc làm của Tiến sĩ CHHV.
-Như giáo sư Phạm Toàn “lo sợ” là CHHV sẽ nhận tội như một số nhà tranh đấu trước đây.
-Một tờ điện báo ở hải ngoại viết sai về lời tuyên bố của CHHV: “Tổ quốc và nhân dân HÃY phá án cho tôi”; trong khi CHHV tuyên bố: “Tổ Quốc và Nhân Dân NHẤT ĐỊNH SẼ phá án cho tôi, công dân CHHV”.
-Một số người xúm vào làm loãng vụ án đang sôi động bằng cách phê phán những lời tuyên bố của giáo sư Ngô Bảo Châu về vụ án; trong khi chính những người này biết là ông Ngô Bảo Châu không nào tuyên bố huỵch tẹt ra được ý nghĩ chân thật của mình vì đã nhận ngôi nhà 600,000 đô la của VC.
-Hai người nham nhỡ nhất trong vụ đánh phá CHHV là “Thằng Hèn” Tô Hải và “Thần Bột Ngọt” Kami Ajimoto. Một anh thì giả dạng là “thành phần quyết tử” viết bài ca tụng Đảng và Nhà Nước và đề nghị Đảng và Nhà Nước cứ bứt dây đánh tới. Một anh thì “chê” Đảng để nịnh bợ Đảng là “vụ án CHHV đã phục hồi chuyên chính vô sản”. Đảng VC đã hết chuyên chính vô sản hồi nào mà bây giờ phục hồi?!
Qua vụ án CHHV cũng giúp những người tranh đấu nhìn rõ mặt những nhà tranh đấu cuội, những “nhà khoa bảng đầu ruồi” “Đông gia thực phạn, Tây gia miên”, những trang mạng “treo đầu dê, bán thịt chó”.
*
Những người cầm bút vì Lẽ Phải và Sự Thật, những người tranh đấu cho tự do, dân chủ cho đất nước đâu có ai màng tới những việc ruồi bu của bọn “bồi thần”. Như nhà thơ Đằng Phương, một bút hiệu của nhà cách mạng Nguyễn Ngọc Huy trên bước đường tranh đấu đã không thèm đếm xỉa… “lũ tục” trong hai câu thơ:
“Một lưỡi gươm thiêng mài gió bụi
Sá chi lũ tục ở trong đời!”
LÃO MÓC
[*] Bài viết do tác giả có bút danh Hồ Hải hiện sống và làm việc tại Hà Nội – đề nghị không ghi tên thật (không phải BS. Hồ Hải – Tp Hồ Chí Minh) gửi trực tiếp cho Nguyễn Xuân Diện-Blog.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét