Pages

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013

2 tháng 9 – Quốc khánh hay Quốc hận?

Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) – Nhân ngày “nhà nước, đảng ta” rầm rộ tôn vinh CM Tháng 8 và quốc khánh 2-9 thử dùng cái thuộc tính “trung thực và sự công bằng” trong góc nhìn khác từ các tư liệu khách quan dựng nên một phỏng đoán ước lệ lịch sử trái chiều với ngày 2/9/1945 như giúp cho các em học sinh, sinh viên, thanh niên trẻ có một “phản biện” mới trong tri thức để tư duy trung thực hơn về lịch sử nước nhà trong một câu hỏi: “Định mệnh nào cho dân tộc, đất nước Việt Nam, nếu như không có ngày 2 tháng 9 – 1945?”. 
*
Định mệnh nào cho dân tộc, đất nước Việt Nam, nếu như không có ngày 2 tháng 9 – 1945? 
Câu hỏi giả định tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại liên quan đến máu xương, hưng vong dân tộc, thuộc phạm trù lịch sử, mà thực tế hiện nay, trong môn học Lịch Sử, hàng triệu học sinh và ngay cả khá nhiều sinh viên thanh niên trẻ Việt Nam trước câu hỏi này. Chắc chắn các em cũng không có câu trả lời thỏa đáng dù lời giải của nó mang tính mô phỏng “ước lệ”, bởi dưới mái trường CS/XHCN các em được dạy dù là dự đoán vô tư khách quan nhưng trong tư duy cũng không được phép nghĩ tới điều này.
Liên quan đến hệ thống giáo dục tuyên truyền lịch sử cực đoan CS/XHCN Thạc sĩ Đinh Kim Phúc hiện công tác tại trường Đại học mở TPHCM cho biết nhận xét của ông về giáo dục trong môn lịch sử như sau:
Chất lượng dạy và học lịch sử đã được báo động hơn 30 năm qua chứ không phải bây giờ mới báo động, và cái kết quả kỳ thi tuyển sinh năm nay (nhiều điểm 0 môn Lịch sử) đó là câu trả lời đối với bộ Giáo Dục và đào tạo. 
 
Người ta đã biến một bộ môn khoa học trở thành một bộ môn chính trị để tuyên truyền, minh họa có lợi cho đường lối chính sách của nhà nước chứ không phải cho một ngành, một khoa, để học sinh cần phải học.
Còn Sử gia đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc cho rằng: “Tính hấp dẫn của lịch sử theo tôi là phải gắn với hai thuộc tính quan trọng đó là tính trung thực và sự công bằng. Rõ ràng sử học Việt Nam trong một thời gian dài nó phục vụ chính trị. Cái nhiệm vụ chính trị tôi cho là không sai nhưng nó đã sơ cứng rồi” (Học sinh Việt Nam quá kém môn sử – RFA).
Nhân ngày “nhà nước, đảng ta” rầm rộ tôn vinh CM Tháng 8 và quốc khánh 2-9 thử dùng cái thuộc tính “trung thực và sự công bằng” trong góc nhìn khác từ các tư liệu khách quan dựng nên một phỏng đoán ước lệ lịch sử trái chiều với ngày 2/9/1945 như giúp cho các em học sinh, sinh viên, thanh niên trẻ có một “phản biện” mới trong tri thức để tư duy trung thực hơn về lịch sử nước nhà trong một câu hỏi: “Định mệnh nào cho dân tộc, đất nước Việt Nam, nếu như không có ngày 2 tháng 9 – 1945?”. 
Giả định, nếu không có ngày 2 tháng 9 năm 1945 – cũng có nghĩa “nếu không có ông Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước Việt nam” chúng ta… thì nội tình chính trị Việt Nam diễn tiến khách quan như lịch sử đã trung thực ghi nhận qua các trình tự thực tế xảy ra mà khá nhiều nhân chứng vật chứng còn hiện diện, không thể nào xóa bỏ hay ngụy biện khác được.
Dẫn chứng thế chiến II. Sau khi tiến quân xuống Đông Nam Á, ở Đông dương quân phiệt Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa thực dân Pháp vào ngày 9 tháng 3 – 1945. Nhưng không lâu quân Nhật bị chận đứng, nhanh chóng “hụt hơi” thảm bại khắp các mặt trận Thái Bình Dương trước quân Mỹ và đồng minh.
Nương theo chiều gió. Một nhà nước đầu tiên của Việt Nam – Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Theo Hiến pháp, Quốc Gia Việt Nam là một chính thể quân chủ lập hiến, hoàng gia là nhà Nguyễn, đứng đầu là đức Vua Bảo Đại, vẫn ở Huế, nhưng chính phủ đặt tại Hà Nội – thành phố được chọn làm thủ đô. Quốc kỳ là cờ quẻ Ly, quốc thiều là bản Đăng đàn cung, quốc ca là bài hát “Việt Nam minh châu trời Đông”. Nội các do ông Trần Trọng Kim tổ chức bao gồm rất nhiều nhân sĩ, trí thức, có thể kể tên: Trần Trọng Kim (Thủ tướng), Trần Đình Nam (Bộ trưởng Nội vụ), Trịnh Đình Thảo (Bộ trưởng Tư pháp), Lưu Văn Lang (Bộ trưởng Công chính), Hồ Tá Khanh (Bộ trưởng Kinh tế), Phan Anh (Bộ trưởng Thanh niên), Hoàng Xuân Hãn (Bộ trưởng Giáo dục – Lễ nghi), Nguyễn Văn Sâm (Khâm sai Nam Kỳ), Trần Văn Lai (Đốc lý Hà Nội), Kha Vạng Cân (Đô trưởng Sài Gòn), Nguyễn Tường Long (tức nhà văn Hoàng Đạo), Vũ Đình Hoè, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Văn Thinh, Hồ Hữu Tường, Bùi Kỷ, Ngụy Như…
Các cuộc thương thuyết đề thâu hồi Nam Kỳ, Bắc Kỳ và ba thành phố nhượng cho Pháp trước kia được tiến hành ngay sau khi chính phủ được thành lập. Bắc Kỳ được trao trả lại cho triều đình Huế vào ngày 27 tháng 4. Ngày 2 tháng 5, tổng đốc Thái Bình Phan Kế Toại được bổ nhiệm làm Khâm Sai Bắc Kỳ, tuy rằng phải đến tháng 6, 1945, chức Khâm Sai này mới đặt trực tiếp dưới quyền triều đình Huế thay vì dưới quyền viên thống sứ Bắc Kỳ như dưới thời Pháp.
Ngày 11 tháng 6, 1945, tướng Nhật Bản Tsuchihashi tư lệnh đạo quân chiếm đóng của Nhật cũng là toàn quyền Đông Dương gặp Vua Bảo Đại tại Huế để thảo luận về việc chính thức trả lại Nam Kỳ, Hà Nội, Hải Phòng và Tourane (Đà Nẵng, Miền Trung) cho Việt Nam. Ngày 16 tháng 6, 1945 Vua Bảo Đại ra một tuyên bố về việc thống nhất của 3 kỳ (Nam, Trung, Bắc)
Bước qua tháng bảy Nhật Bản tiến hành chuyển giao cho chính phủ Việt Nam mọi cơ sở trực thuộc trước đây dưới chính quyền thuộc địa của Pháp. Hà Nội, Hải Phòng và Tourane được trả về cho triều đình Huế vào cuối tháng bảy sau khi ông Trần Trọng Kim gặp tướng Tsuchihashi vào ngày 13/7. Trần văn Lai được bổ nhiệm làm thị trưởng Hà Nội, Vũ Trọng Khanh thị trưởng Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong thị trưởng Tourane. Nam Kỳ chỉ được trả về cho triều đình Huế vào ngày 14 tháng 8 với Nguyễn văn Sâm được bổ nhiệm làm Khâm Sai Nam Kỳ.
Toàn dân cả nước tưởng như một chương mới lịch sử đã sang trang mang lại độc lập yên bình với con cháu Lạc Hồng, như các quốc gia Đông Nam và Châu Á khác, nhưng không…
Nhà báo Bùi Tín (cựu P/TBT báo CS-Nhân dân) năm đó tuổi mới ngoài 20, còn nhớ để nói về bối cảnh bất ngờ của những ngày tháng ấy, ông kể lại:
 
“Sau khi Nhật đầu hàng Mỹ và đồng minh, quân đội Nhật ở Việt Nam trao trả Phủ Toàn Quyền cho Phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí ủng hộ độc lập cho đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội – được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại – đứng ra tổ chức một cuộc mít-tinh ở trước sân tiền sảnh Nhà Hát Lớn Hà Nội. để chào mừng Chính Phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được ai đó thả từ bao lơn của nhà hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp lấy micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức chào mừng Chính Phủ mới thành lập của Việt nam, Trần trọng Kim, bỗng nhiên lại biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh (CSVN). 
Sự việc cụ thể nó diễn ra như vậy mà đảng ta gọi là ngày tổng khởi nghĩa CM tháng 8 giành chính quyền (hay cướp chính quyền?) trong cả nước, ngày Quốc khánh thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ngày mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh…”
Sự cuồng tín CNCS làm cho ông Hồ Chí Minh và CSVN “mù lòa thế giới quan” Không biết rằng trước đó, Tổng thống Hoa Kỳ Wilson đã đề xướng quyền Dân tộc Tự quyết và khuyến cáo các Đế quốc Tây Phương hãy từng bước trả lại độc lập cho các nước thuộc địa Á Phi. Hưởng ứng khuyến cáo này, trong năm 1919, Anh Quốc đã trả độc lập cho Canada và A Phú Hãn (Afghanistan). Năm 1941, các Quốc Gia Đồng Minh Tây Phương triệu tập Hội Nghị New-Foundland (Canada) để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương. Nhằm đánh bại phe xâm lược để bảo vệ Văn Minh và Văn Hiến quốc tế. Ngoài ra Hội Nghị còn đề xướng Quyền Dân Tộc Tự Quyết nhằm phục hồi chủ quyền độc lập cho các nước thuộc địa và bảo hộ tại Hội Quốc Liên, (Liên Hiệp Quốc), Từ 1946 đến 1949, các Đế quốc Phương Tây Pháp, Anh, Hà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa và bảo hộ tại châu Á (trong đó có cả Việt Nam, qua hoàng đế Bảo Đại như nói trên).
Đến đây bao quát điểm lại thế giới quan tại thời điểm ấy thì chúng ta nhận thấy khi đế quốc thực dân cáo chung trên toàn thế giới thì nhanh hay chậm độc lập và hòa bình đã (Chính phủ Trần Trọng Kim) và sẽ đến trọn vẹn với Việt Nam như ánh ánh bình minh một ngày mới vươn lên mà không phụ thuộc bất cứ “tiếng gà gáy” nào! cũng như các nước Đông Nam Á thu hồi độc lập mà không hao tốn máu xương.
Vì vậy nếu không có “CM tháng 8 và ngày 2 tháng 9, cũng có nghĩa không có ông Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam thì tất yếu không thể có: 
- Hiệp Định Geneve 1954 chia cắt đất nước. Không có “đấu tố” CCRĐ dã man với gần 200. 000 lương dân vô tội bị CSVN tàn sát. Kkhông có 1 triệu đồng bào miền Bắc trốn chạy CS vào miền Nam.
- Không có “ ta vào Nam nổ súng là cho Nga xô và Trung Cộng” (Lê Duẫn) không có Tết Mậu Thân (1968) trong 2 tháng với hơn 200. 000 con em thanh niên “sinh Bắc tử Nam” – và gần 8000 đồng bào Huế bị CSVN sát hại tập thể.
- Không có HĐ Paris 1973 (Rút quân Mỹ lập lại hòa bình) CSVN lừa bịp quốc tế, tiếp tục vượt vĩ tuyến 17 gây chiến tranh với duy nhất đồng bào mình.
- Không có 1975 với những kẻ “đói khát” nhưng no đủ súng đạn Nga, Tàu từ miền Bắc phá bỏ HĐ Paris 1973 tự hào “giải phóng” một nữa đất nước, miền Nam đang ổn định, thịnh vượng, no đủ ấm êm.
- Không có sau cuộc nội chiến “nồi da sáo thịt” đớn đau, CSVN lại còn lùa hơn nữa triệu “đồng bào” sĩ quan công chức tinh hoa của miền Nam vào các trại tù “cải tạo” tiếp tục gây nên hàng trăm ngàn cái chết khi quê hương đã im tiếng súng từ lâu.
- Không có hàng triệu đồng bào trốn chạy CS, bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người lấy biển khơi làm mộ phần!
- Không có một Việt Nam “thống nhất” bởi một đảng CSVN độc tài bạo quyền với hơn 4 triệu đồng bào hy sinh nhưng một phần cương thổ đất trời biên giới biển đảo quê hương dâng hiến cho kẻ thù TQ lại còn “dạy bảo” người dân nước mình phải nhớ ơn sâu nặng bọn xâm lược!
- Không có một bọn người chóp bu CSVN ngu xuẩn, lấy súng đạn Tàu Cộng đánh Mỹ tới người Việt Nam cuối cùng cho Mỹ rút đi, dọn đường thênh thang cho Tàu Cộng một mình một cõi vào biển Đông hành hạ ngư dân áp đặt chủ quyền, như rước voi dày lên mã tổ nhà mình… nhưng vẫn cúi đầu khép nép hữu hão “Rất nhớ ơn”…!
- Không có một cái “đảng Bịp Bợm” với chiêu bài “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động” (Điều 4HP).
Nhưng lại lùa gần nữa triệu (500. 000) thanh niên công nhân con em của nhân dân lao động “xuất khẩu” làm vợ hờ, osin, bán sức lao động như nô lệ cho các quốc gia tư bản tự do dân chủ đa nguyên láng giềng quanh khu vực để săn nhặt từng đồng ngoại tệ cho “đảng ta” xây dựng “thiên đàng CS/XHCN” mà sau 70 năm đang xếp hàng đầu lạm phát nhất thế giới – Quốc gia có số dân nghèo (thu nhập dưới 2 USD/ngày) gần đứng đầu khu vực sau Campuchia.
Cuối cùng là một điều cực kỳ quan trọng:
Nếu không có “CM tháng 8 và ngày 2 tháng 9,1945, cũng có nghĩa không có ông Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam” thì tất yếu: 
Không có cái nước CH/XHCN/VN mà tại Đông Dương và trong khối Asean đã có một “ Cộng Hòa Hoàng Gia Việt Nam” mà thế lực kinh tế tài chính quân sự hùng mạnh không thua gì Hàn Quốc, Đài Loan hay Singapore.
Bởi, trong quá trình lập quốc, Thủ tướng Lý Quang Diệu (trước 1975) đã từng động viên tinh thần nhân dân đảo quốc Singapore rằng: “Chúng ta hãy cố gắng, một ngày nào đó không xa Singapore sẽ bằng Sài Gòn của Việt Nam”. 
Nhưng hiện nay, sau gần nữa thế kỷ thu nhập (GDP) người dân Singapore, theo tờ Wall Street Journal, báo cáo từ Knight Frank và Citi Private Wealth ước tính, ở mức 56. 532 USD năm 2010 tính theo đồng giá sức mua PPP (Singapore đứng đầu thế giới về thu nhập bình quân đầu người – VnEconomy).
Còn CH/XHCN/VN – GDP đầu người đạt 1. 300 USD/năm. (Dantri.com.vn)
Và càng xấu hổ hơn nữa CH/XHCN/VN là quốc gia cộng sản vi phạm nhân quyền, có số tù nhân PV báo chí, blogger, và bất đồng chính kiến nhiều nhất trong khối Asean.
Tổng quát như thế, có xứng đáng và chính xác không để chúng ta xem ngày Quốc Khánh 2/9 chính là ngày “Quốc Hận” của toàn dân tộc Việt Nam?

Không có nhận xét nào: