Trong lịch sử Việt Nam, khi bị giặc Tầu xâm lăng, những vị lãnh đạo đất nước đều quyết tâm chống lại. Đi đôi với quyết tâm này là việc kêu gọi toàn dân chung lòng góp sức. Chẳng hạn, khi quân Nguyên xâm lược nước ta, vua Trần Thánh Tông đã triệu tập Hội Nghị Diên Hồng, quy tụ các bô lão, những người được coi là khôn ngoan nhất trong nước lại, để xin ý kiến và lấy quyết định của toàn dân. Nhờ chủ trương “quyết chiến” của toàn dân mà dân tộc ta đã thắng quân Nguyên cách oanh liệt.
Nhưng từ khi Việt cộng cướp được chính quyền tại Miền Bắc tới nay, trước áp lực của Tầu cộng, 11 thế hệ của bộ chính trị Việt cộng đã từng nhượng cho Tầu cộng nhiều phần đất phần biển của tổ quốc. Năm 1958, không cần tốn một viên đạn, Tầu cộng đã buộc được Việt cộng phải công nhận chủ quyền của chúng trên phần biển có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc. Trong thập niên trước, cũng chưa cần tốn một viên đạn, Tầu cộng đã ép được bộ chính trị Việt cộng ký những mật ước nhượng cho chúng hàng ngàn cây số vuông lãnh thổ và hàng chục ngàn cây số vuông lãnh hải…
Chẳng những thế, những năm gần đây, bộ chính trị Việt cộng còn tạo nhiều điều kiện thuận lợi để Tầu cộng có thể xâm chiếm Việt Nam như:
- cho Trung cộng lập những đường xe lửa cao tốc từ Tầu chạy thẳng vào Việt Nam, đồng thời mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh để xe tăng của Trung cộng có thể chạy thẳng vào Miền Trung và Miền Nam Việt Nam;
- cho phép dân Trung cộng được tự do vào Việt Nam không cần visa để định cư, làm ăn, lập những làng Tầu, thậm chí những thành phố Tầu ở nhiều nơi tại Việt Nam, chẳng hạn một thành phố Tầu, một Chinatown được mệnh danh là “Đông Đô Đại Phố, đã được khởi công xây dựng ngày 22 tháng 5 ở Bình Dương. Điều này tạo điều kiện dễ dàng cho Tầu cộng đưa nội ứng của chúng vào trong lòng đất nước, rất thuận lợi cho Tầu cộng xâm lăng Việt Nam về quân sự cũng như kinh tế;
- cho Trung cộng đem hàng chục ngàn công nhân ‒ có thể là quân nhân trá hình ‒ vào Tây Nguyên với danh nghĩa khai thác bauxite, bất chấp việc này hết sức nguy hiểm cho nền an ninh quốc gia;
- cho Trung cộng đưa người của họ vào những khu rừng đầu nguồn, và rừng phòng hộ của Việt Nam diện tích tổng cộng khoảng 300.000 ha với danh nghĩa cho họ thuê dài hạn để khai thác lâm sản
- cho Tầu cộng đem hàng chục ngàn công nhân ‒ có thể là quân nhân trá hình ‒ vào Tây Nguyên với danh nghĩa khai thác bauxite, bất chấp việc này hết sức nguy hiểm cho nền an ninh quốc gia;
- cho Tầu cộng khai thác rừng đầu nguồn với danh nghĩa cho thuê dài hạn;
- vân vân… (nghĩa là còn nhiều việc khác nữa).
Nay, Tầu cộng đã ngang nhiên xâm phạm bờ cõi Việt Nam qua việc bắn chết ngư dân Việt Nam, cắt dây cáp thăm dò các tàu của Việt Nam ngay trong lãnh hải Việt Nam. Thế mà nhà nước Việt cộng không hề có hành động phản đối nào thật sự tích cực và hữu hiệu.
Trước nguy cơ đất nước bị mất vào tay Tầu cộng như trường hợp Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ… nhiều người dân đã ý thức trách nhiệm phải bảo vệ tổ quốc. Họ đã biểu lộ trách nhiệm ấy bằng những cuộc biểu tình chống Tầu cộng. Nhà nước Việt cộng vốn suy yếu đến nỗi trong quá khứ, chỉ cần Tầu cộng áp lực nhẹ nhàng, đã sẵn sàng nhượng đất nhượng biển cho họ, thì bây giờ trước nguy cơ đất nước bị Tầu cộng xâm chiếm, đúng ra họ phải dựa vào sức mạnh của toàn dân để chống ngoại xâm. Đằng này, họ lại bắt bớ, khủng bố, đánh đập dã man những người dân yêu nước muốn biểu lộ ý chí bảo vệ tổ quốc, chống Tầu cộng xâm lăng (1*).
Trước phản ứng mãnh liệt chống Tầu cộng của dân chúng, Việt cộng lại đưa ra luận điệu cũ rích: chống Tầu cộng xâm lăng là việc của nhà nước… không phải là việc của người dân. Đó quả là thái độ xem thường nhân dân và sỉ nhục lòng yêu nước của người Việt Nam, ngược hẳn lại tinh thần của các vị lãnh đạo đất nước xưa.
Từ khi cướp được chính quyền, Việt cộng đã tước đoạt quyền tự quyết của dân tộc, các quyền tự do của người dân, kể cả quyền tự vệ cá nhân (2*). Nay quyền tự vệ của đất nước trước nguy cơ bị Tầu cộng xâm chiếm, họ cũng chủ trương tước đoạt luôn. Họ muốn độc quyền bảo vệ đất nước. Nếu trong quá khứ, họ đã thật sự bảo vệ được đất nước thì thiết tưởng người dân có thể tin tưởng mà trao quyền đó cho họ. Nhưng kinh nghiệm quá khứ thật phũ phàng! Phải chăng Việt cộng muốn dành độc quyền chống ngoại xâm, không chấp nhận cho người dân được phép chống, là để họ có thể tự tung tự tác dâng cả đất nước này cho Tầu cộng, như họ đã từng dâng cho Tầu cộng một số lãnh thổ và lãnh hải? Quả là “giao trứng cho ác” nếu người dân giao việc bảo vệ đất nước cho bè lũ đã từng nhượng đất và biển của tổ quốc cho ngoại bang!
Đối với một nước lớn có sức mạnh quân sự gấp nhiều lần Việt Nam như Tầu cộng, nếu không có nhân dân, làm sao Việt cộng có thể thắng được chúng khi chúng quyết tâm đánh chiếm nước ta. Thế mà nhà nước Việt cộng lại ngăn cản, không cho người dân được tự do chống ngoại xâm. Trước thái độ đó, người ít suy nghĩ nhất cũng có thể hiểu rằng họ có ý đồ đồng lõa, tiếp tay cho Tầu cộng xâm chiếm nước ta (3*).
Nếu họ thực tâm muốn bảo vệ tổ quốc chống Tầu cộng xâm lăng thì họ đã trân trọng và hết sức vui mừng khi người dân tham gia đông đảo những cuộc biểu tình chống Tầu cộng, đồng thời dựa vào thế của người dân để đòi buộc Tầu cộng phải tôn trọng bờ cõi nước ta.
Nhưng họ đã làm ngược lại. Họ đã bắt bớ, khủng bố, thậm chí tra tấn, đánh đập dã man những người kêu gọi, huy động người dân biểu tình, hoặc những người tỏ ra năng nổ, hăng hái, tích cực trong những cuộc biểu tình, để những cuộc biểu tình sẽ không xảy ra được nữa. Họ đối xử với những người dân yêu nước và sẵn sàng hy sinh cho quê hương đất nước chẳng khác gì những tên tội phạm, như kẻ thù của dân tộc.
Tại sao những người chống Tầu cộng chứ không phải chống chế độ, lại bị Việt cộng coi như chống chính họ? Phải chăng Việt cộng tự đồng hóa mình với Tầu cộng? Phải chăng chống Tầu cộng đồng nghĩa với chống Việt cộng? Phải chăng Việt cộng đã đứng hẳn về phía Tầu cộng để chống lại dân tộc, chống lại ý chí chống ngoại xâm của dân Việt?
Houston, ngày 03/7/2011
Nguyễn Chính Kết
_____________________
Phụ chú:
(1*) Cụ thể như trường hợp cô Phạm Thanh Nghiên, cô chỉ biểu tình một mình trước cửa nhà với khẩu hiệu “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” treo phía trên. Cô không hề làm mất trật tự, không gây ồn ào. Nhưng cô đã bị bắt khi đang biểu tình kiểu đó vào ngày 18/9/2008, sau đó bị kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế với tội danh gán ghép là “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”
(xem http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/01/100126_phamthanhnghien_update.shtml ).
Hay như trường hợp các sinh viên biểu tình tại Sàigòn vào các ngày 5/6, 12/6, công an đã bắt một số sinh viên, chủ yếu là những sinh viên tích cực, hăng hái mà họ cho là chủ động trong các cuộc biểu tình. Những sinh viên này đã bị công an thẩm vấn, hăm dọa, yêu cầu không được biểu tình nữa, đồng thời bị canh chừng không cho ra khỏi nhà vào các ngày 19/6, 26/6 khiến cho cuộc biểu tình vào những ngày đó không thực hiện được.
(xem http://xuandienhannom.blogspot.com/2011/06/buc-thu-vo-cung-ac-biet-gui-nguyen-xuan.html ;
http://www.giaiphapdanchu.com/2011/06/nguyen-quang-lap-khong-co-gi-ac-biet.html;
http://domole.tumblr.com/post/6605020198/tam-hinh-tren-cho-thay-cai-anh)
Cụ thể nhất và mới nhất là trường hợp mục sư Phạm Ngọc Thạch. Trước hiểm họa đất nước bị Tầu cộng xâm chiếm, ông phổ biến những truyền đơn có nội dung chống Tầu cộng. Vì thế, 11g00 tối ngày 25/6, ông bị đưa về công an phường 26 quận Bình Thạnh. Tại đây, ông bị tra tấn, đánh đập dã man đến nỗi bể xương hàm. Khoảng 1g00 sáng rạng ngày 26/6, khi bị đưa ra khỏi cổng công an phường 26 để đưa về công an thành phố, dù bị gẫy xương hàm, ông vẫn hô to: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. Lập tức ông bị công an bịt miệng lại ngay. Hiện nay, ngay cả gia đình ông cũng chưa biết tình trạng của ông ra sao.
(xem http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/pastor-phamnthach-arrested-tq-06252011205846.html;
http://www.freevietnews.com/tintuc/detail.php?subaction=showfull&id=1309042992&archive=&ucat=)
(2*) Quyền tự vệ cá nhân bị tước đoạt, như dân oan bị cướp đất đai nhà cửa, khi họ khiếu kiện, hoặc biểu tình phản đối đòi công lý thì lại bị công an đàn áp, đánh đập tàn nhẫn, bị bắt, bị đưa ra tòa, bị vào tù. Như vậy là người dân bị oan ức bị tước quyền tự vệ.
(3*) Năm 2009, khi tôi trình bày ý đồ trên của Việt cộng cho ông Dan Southerland, Phó Tổng Giám Đốc đài RFA, ông ta hỏi tôi: “Làm sao anh dám chắc chắn điều ấy?” Tôi trả lời: “Làm chính trị thì phải tiên đoán được sự việc trước khi nó xảy ra. Khi thấy một người đi chung quanh nhà mình quan sát, lại còn tìm cách mở ổ khoá nhà mình, thì mình phải biết chắc chắn rằng hắn đang muốn vào nhà mình ăn trộm. Chờ hắn vào nhà mình và ăn trộm xong mới dám xác định điều đó thì đã quá muộn. CSVN đã tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc xâm lấn Việt Nam như vậy mà không đoán được họ đã có những mật ước bán đứng đất nước cho Trung Quốc, chờ đến khi đất nước mất hẳn vào tay Trung Quốc rồi mới dám xác định thì đâu còn làm được gì nữa?”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét