Pages

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013

SỨC ÉP PHẢI ĐỔI MỚI!

Lâm Phương, theo Tầm Nhìn
Chỉ số đổi mới của Việt Nam đã bị tụt hạng từ nhiều năm nay. Nếu như năm 2009, Việt Nam được xếp vị trí 64 về chỉ số đổi mới trên toàn cầu thì năm 2010 đã tụt đến 7 bậc, lên vị trí thứ 71. Năm 2011, vị trí này đã tăng lên thứ 51 nhưng lại tụt đến 25 bậc trong năm 2012.
Doanh nghiệp Việt Nam đang đối mặt với sức ép phải đổi mới, nếu không muốn ngày càng thụt lùi so với các công ty, tập đoàn đa quốc gia.
Theo dõi bảng xếp hạng: Thứ bậc, Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới/ Sáng tạo của Việt nam và các nước xung quanh, ta thấy năm 2009, Việt Nam được xếp vị trí 64 về chỉ số đổi mới trên toàn cầu thì năm 2010 đã tụt đến 7 bậc, lên vị trí thứ 71. Năm 2011, vị trí này đã tăng lên thứ 51 nhưng lại tụt đến 25 bậc trong năm 2012. Số liệu này cho thấy,  chỉ số đổi mới của Việt Nam đã liên tục tụt hạng từ nhiều năm nay.

Trong khí đó: chỉ số đổi mới của Thái Lan là 34 (2008) 44 (2009), 60 (2010), 48 (2011), 57 (2012); của Singapo là 7 (2008), 5 (2009), 7 (2010, 1 (2011), 3 (2012)
Như vậy, trong khi các nước khác ở châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Singapo.. phát triển mạnh hơn trong những năm vừa qua thì Việt Nam lại giảm sút. Vì sao lại có kết quả như vậy?
Lao động giá rẻ với nguồn cung dồi dào đồng thời là lợi thế của Việt Nam trong những năm qua nhưng nay đã không còn. Một mặt, so với nhiều nước, chi phí lao động của Việt Nam được xếp loại thấp (khoảng 5USD/ngày/người) nhưng ở Myanma còn rẻ hơn, chỉ khoảng 3USD/ngày/người. Mặt khác, ưu thế này đang trở thành một lực cản cho phát triển khi ưu thế về nhân công giá rẻ cũng sẽ mất khi nhu cầu trên thị trường lao động dần cần những lao động có trình độ để áp ứng nền kinh tế đang dần chuyển từ mô hình kinh tế phát triển theo chiều rộng sang mô hình kinh tế phát triển theo chiều sâu, dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả.Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Muốn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, “Việt Nam cần tăng 50% tốc độ tăng năng suất lao động do nguồn cung giảm mạnh, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đô thị hóa đang chậm lại. Đây là điều hoàn toàn không dễ dàng cho Việt Nam”,
Thực tế những năm qua cho thấy, các quốc gia đi sau do biết sử dụng lợi thế của các nước đi sau, thường phát triển nhanh hơn. Nếu như Anh mất 150 năm để tăng GDP đầu người lên gấp đôi, Mỹ mất 50 năm, thì Ấn Độ chỉ mất 16 năm và Trung Quốc chỉ cần 12 năm. Trung Quốc đã tập trung nhiều hơn cho thị trường nội địa và họ chuyển dần từ “người sản xuất khủng lồ” sang phục vụ dịch vụ.
Bằng chính sách đổi mới, Việt Nam cũng đang tích cực tìm kiếm các cơ hội để tận dụng lợi thế này. Từ nhiều năm nay, Việt Nam đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Hiện nay, trong cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, chiếm đến 43,12% là dịch vụ, 38,7% là công nghiệp, chỉ 18,18% là nông nghiệp và thuỷ sản. Tuy nhiên, điểm yếu của hoạt động xuất khẩu của Việt Nam mới chủ yếu là xuất sản phẩm thô.
Đơn cử, trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam là nhà sản xuất cà phê thứ hai sau Brazil, chiếm đến 14,3% thị phần thế giới nhưng chủ yếu xuất khẩu cà phê thô (cà phê nhân). Trong khi Starbucks bán “sự trải nghiệm” thì các DN Việt Nam chỉ mới đạt đến việc bán hàng hoá chế biến (cà phê đóng gói), dịch vụ (cà phê sữa).
Như vậy, các DN Việt Nam hết sức khó khăn khi phải cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia không chỉ trên thị trường nước ngoài mà ngay cả tại sân nhà.
DN Việt Nam có xuất phát điểm thấp và bất cứ sản phẩm nào của DN trong nước đưa ra cũng gặp sự cạnh tranh khốc liệt bởi sản phẩm của các tập đoàn đa quốc gia. Họ không những mạnh về tiềm lực kinh tế mà còn rất am tường về thị trường, về người tiêu dùng Việt Nam.
Một nghiên cứu của Công ty PricewaterhousCoopers (PwC) gần đây cho thấy, những nỗ lực tập trung cho sự phát triển và đổi mới của DN Việt Nam sẽ tạo ra đột phá về tiềm năng lợi nhuận. Trong đó, doanh thu sản phẩm mới tăng 20 – 40%, thời gian tiếp thị nhanh hơn 40 – 60%, chi tiêu lãng phí giảm từ 50 – 80%, hiệu suất R&D tăng 25 – 30%, và năng suất dự án tăng 40 – 100%.
Nhưng để tạo ra sự đột phá đó, đổi mới phải nằm trong chương trình hành động không chỉ của các doanh nghiệp mà còn cả với sự nỗ lực của tổ chức.
Có hai tiêu chí đầu vào rất quan trọng tạo ra sự đổi mới đó là tiêu chí về các tổ chức Nhà nước (Institutions) và Nguồn vốn con người (Human Capital/Capacity).
Về tổ chức, có 3 tiêu chí để đánh giá: Môi trường chính trị, Môi trường điều hành, Môi trường kinh doanh. Đây đều thuộc về trách nhiệm của tổ chức nhà nước.
Về “Vốn” con người, thì phải đánh giá đến Giáo dục (phổ thông, Đào tạo Đại học và dạy nghề), hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) của chính con người.
Việc đầu tư và chăm lo cho những nhiệm vụ này cũng là trách nhiệm chính của các cơ quan quản lý nhà nước. Những tiêu chí này tạo tiền đề cho Đổi mới, sáng tạo. Nếu những tiêu chí này thấp, thì chỉ số Đổi mới sáng tạo không những không cao mà còn bị kéo thấp xuống. Có nghĩa làm trí tuệ của đất nước thụt lùi./.

Không có nhận xét nào: