Minh Diện
Nhà thơ cựu chiến binh Lê Văn thắp ba nén nhang trước bàn thờ Tiến sỹ Phan Thanh Giản và xúc động đọc tám câu thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu khóc cụ Phan. Giọng nhà thơ Lê Văn cất lên rất hào sảng, nhưng nghe đắng cay day dứt cồn cào như tiếng réo của dòng sông Ba Rài hun hút chảy giữa chiều tím ngắt :
Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao Châu,
Ba triều công cán vài hàng sớ
Sáu tình cương thường một gót thâu!
Trạm Bắc ngày chiều, tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Minh tình chín chữ lòng son tạc,
Khói nhang nghi ngút lan tỏa trên khuôn mặt khắc khổ với vừng tán rộng, đôi lưỡng quyền nhô cao, hai má hóp, cặp mắt trũng sâu chứa đựng dằn vặt ưu tư của Kinh lược sứ. Tôi bỗng cảm thấy như tiếng cụ hòa trong tiếng sóng,tiếng gió từ ngày xưa vọng về : “ Hỡi các quan và lê dân! Các người có thể sống dưới sự điều khiển của người Phú-lang-sa. Những người này chỉ đáng lo lúc chiến tranh mà thôi. Nhưng lá cờ ba sắc không thể bay phấp phới trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống!”
Đó chính là lời trăn trối của Phan Thanh Giản gửi hai quan Tổng đốc miền Tây và đồng bào Nam bộ trước khi cụ uống chén thuốc độc tự tử vào tờ mờ sáng ngày 5 tháng 7 năm Đinh Mão 1867 , sau 17 ngày tuyệt thực vì không thể giữ được thành Vĩnh Long trước quân Pháp.
Bi kịch ấy bắt đầu từ năm 1858 , khi liên quân Pháp -Tây Ban Nha đổ bộ vào cửa biển Đà Nẵng . Quan trấn thủ Đà Nẵng án binh bất động, sau đó quân triều đình nhà Nguyễn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương ngoan cường chiến đấu, nhưng thế giặc quá mạnh, vua Tự Đức lại bạc nhược nghe lời xúi giục của bọn quan tham chủ hòa hơn chủ chiến, để mất lòng dân , nên quân Pháp đánh bại đồn Kỳ hòa rồi lần lượt chiếm các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Phan Thanh Giản với vai trò là Chánh sứ và Lâm Duy Hiệp là Phó sứ , được cử đi điều đình với Pháp , và đại diện cho triều đình ký Hiệp ước năm Nhâm tuất 1862 tại Sài Gòn. Theo bản Hiệp ước đó , nhà Nguyễn phải giao cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Côn Đảo , và phải bồi thường cho Pháp 4 triệu piastre , đổi lại , Pháp sẽ trả lại tỉnh Vĩnh Long cho triều đình.
Dù bản Hiệp ước hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam , nhưng Pháp vẫn chưa thỏa mãn, lật lọng, mang quân đánh chiếm Vĩnh Long-An Giang- Hà Tiên. Triều đình càng bạc nhược, cố bám vứu vào bản Hiệp ước Nhâm Tuất. Vua Tự Đức chỉ dụ “ Đem sao 12 điều ước cũ đưa đi treo, để hiểu bảo cho sĩ dân đều biết, khiến đều yên ổn làm ăn!” Triều đình còn hèn nhát nghe theo Pháp , ra chỉ dụ hưu binh, ép Trương Định giải tán lực lượng chống Pháp và ra lệnh cho các cấp chính quyền bắt giam những người hoạt động chống Pháp , cả những người chứa chấp họ như kẻ phạm tội.
Trong tình thế như vậy, quan kinh lược Phan Thanh Giản bị giằng xé giữa đức trung quân, lòng ái quốc và ý chí bất khuất của bậc trí giả. Cụ không thể trái ý vua , nhưng không cam tâm nhìn thấy cờ giặc phấp phới bay trên thành lũy của mình. Cuối cùng cụ đành phải dâng thành cho Pháp theo ý vua, giúp dân thoát cảnh binh đao , chọn cho mình cái chết để giữ khí tiết. Phan Thanh Giản dũng cảm nhận trách nhiệm về mình khi viết sớ tâu với vua Tự Đức : “ Nghĩ tội đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục cho quân phụ!”
Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi Phan Thanh Giản : “ Phan học sỹ hết lòng mưu quốc!” , “Minh tinh chín chữ lòng son tạc!” và viết những câu thơ đầy bi tráng tỏ lòng thông cảm với cụ.
Xuất thân từ tầng lớp dân nghèo nhưng Phan Thanh Giản có lòng hiếu thảo, hiếu học , tinh thần siêng năng cần mẫn và trí thông minh . Phẩm giá con người và sự thành đạt của Phan Thanh Giản là niềm tự hào của dân Nam Kỳ lục tỉnh. Cụ đậu cử nhân năm 1825, đậu Đệ tam giáp đồng tiến sỹ năm 1826 và là Tiến sỹ khai khoa ở Nam Bộ . Cụ từng giữ nhiều chức vụ quan trọng suốt ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức , như Lang Trung Bộ hình, Đại lý cơ mật viện, Chánh chủ khảo trường thị Hà Nội, Hình bộ thượng thư, Quốc tử giám vụ, Kinh lược sứ v.v . Con đường hoạn lộ của Phan Thanh Giản khúc khuỷu thăng trầm, năm lần bị bãi chức rồi phục chức , bất kỳ hoàn cảnh nào , cương vị nào tấm lòng yêu nước, thương dân, tính tình ngay thẳng của cụ cũng không lay chuyển. Phan Thanh Giản từng khuyên vua “ Quan tốt thì dân yên”, “ Chỉnh đốn thói quen cũa sỹ phu đề chữa bệnh đau khổ cho dân”, “Nuôi dân chăm cày cấy, dân yên , binh giỏi như nguồn nước chảy mãi không hết!”
Phan Thanh Giản xứng đáng với bốn chữ khắc trên khánh vàng vua ban : “ Liêm-Bình-Cẩn-Cán!” (Liêm chính, công bằng, cẩn thận, siêng năng). Cụ còn là một nhà thơ , nhà văn, nhà nghiên cứu với những tác phẩm nổi tiếng như Lương khê thi thảo, Lương văn thi thảo, Sứ thanh thi tập, Việt sử thông giám cương mục v.v .
Một con người đại trí , đại nhân, đại dũng như vậy, nhưng cụ Phan Thanh Giản sẵn sàng nhận nỗi quốc nhục về mình, không tham sống , không màng bia đá bảng vàng, trước khi chết cụ dặn con cháu chỉ đề hàng chữ : “ Nam kỳ hài nhai lão thơ sanh Phan công chi mộ!” trên mộ chí.
Vua Tự Đức và quan lại triều Nguyễn đã trút hết trách nhiệm để mất ba tỉnh miền Đông, miền Tây lên đầu Phan Thanh Giản: “Nghị hòa là thất cơ, lỗi ấy do hai viên kia! (tức Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp). Câu “Phan, Lâm mãi quốc…” từ đó mà lưu truyền từ Nam ra Bắc, khắc tội cụ Phan vào tấm bia miệng trong dân gian.
Năm 1886 vua Đồng Khánh đã xét lại công tội cụ Phan Thanh Giản, ra chiếu“Khai phục nguyên hàm”, khắc lại tên cụ trong bia tiến sỹ ở Văn Miếu Huế (Văn Thánh Miếu). Trước đó dưới chân núi Ba Thê, Thoại Sơn (An Giang) dân đã lập đền thờ Phan Thanh Giản, và ở xã Trương Bình Hiệp, Bình Dương dân thờ cụ trong đình làng ngay từ khi cụ mất. Năm 1924 vua Khải Định ký sắc phong Phan Thanh Giản là : “Đoan túc dực bảo trung hưng tôn thần” và chuẩn cho phụng thờ cụ để “ giúp đỡ và che chở cho dân đen ta”.
Năm 1963,trong một cuộc hội thảo ở Hà Nội, Viện trưởng Viện sử học Trần Huy Liệu vẫn kết luận Phan Thanh Giản là kẻ bán nước, đóng đinh số phận cụ vào cùng bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc.
Ngày Sài Gòn giải phóng, con đường mang tên Phan Thanh Giản từ ngã sáu ra Hàng Xanh lập tức đổi thành đường Điện Biên Phủ. Ở thành phố Cần Thơ , ủy ban quân quản ra lệnh phá sập bức tượng Phan Thanh Giản trong một ngôi trường mang tên cụ, có người quá khích mang hình cụ dán vào gốc cây dùng súng AK bắn nát tim.
Mãi hơn 30 năm sau, một cuộc hội thảo về Phan Thanh Giản được tổ chức quy mô ở thành phố Hồ Chí Minh, đánh giá lại toàn bộ cuộc đời cụ , được nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhiệt liệt hoan nghênh , và năm 2008, tỉnh Bến Tre đã lập đền thờ và dựng tượng Phan Thanh Giản, để hôm nay chúng tôi được kính cẩn thắp nén nhang thơm tưởng niệm…
Nhẽ ra phải vui vì được chiêm ngưỡng bức tượng Phan Thanh Giản trong ngôi đền thờ trang nghiêm như sự minh chứng của lịch sử, nhưng trước hương linh cụ lòng chúng tôi bỗng nặng trĩu khi nhắc đến huyện đảo Hoàng Sa giàu đẹp và một phần quần đảo Trường Sa đã rơi vào tay Trung Quốc. Nhà thơ Lê Văn bảo: “ Cái công hàm ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký gửi cho Trung Quốc năm 1958 na ná cái Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 cụ Phan Thanh Giản ký với Pháp. Cả hai đều để mất đất của tổ tiên. Nhưng cụ Phan bị ép đến đường cùng , còn ông Phạm Văn Đồng thì trên tinh thần đồng chí hữu nghị!”.
Chúng tôi tự hỏi, hành động Trung Quốc đem quân cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, Gạc Ma 1988, và xâm lược biên giới phía Bắc nước ta năm 1979 có kém gì thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ 1862 và Miển Tây Nam Bộ năm 1867? Sự cả tin, nhún nhường đến bạc nhược trước Trung Quốc và cách hành xử với người dân yêu nước của một số quan chức bây giờ có thua gỉ vua quan thời Tự Đức ?
Hình như lịch sử lắt léo đang muốn lặp lại. Có điều ngày xưa trước bi kịch của đất nước, cụ Phan Thanh Giản đã khảng khái: “Những lá cờ ba sắc không thể bay phấp phới trên một thành lũy nào mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống!”, thì bây giờ có kẻ hân hoan nhìn những lá cờ năm sao bay phấp phới trên đất của cha ông ta. Ôi “Non nước tan tành hệ bởi đâu?”
M D
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét