Pages

Thứ Tư, 6 tháng 2, 2013

Đánh giá vị thế chiến lược của Việt Nam (2)


Icon_Biển Đông_Đường Lưỡi Bò1
Carlyle Thayer
Diên Vỹ chuyển ngữ
Chính sách Quốc phòng
Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền chỉ với ba quốc gia: Trung Quốc, Lào và Cambodia. Nó cũng có một bờ biển dài hướng ra biển Đông kèm theo khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý. Việt Nam hiện đang đóng giữ khoảng 20 đảo và địa điểm trên biển Đông, mỗi vị trí này cho Việt Nam quyền thừa nhận chủ quyền tài nguyên dưới nước và bờ biển chung quanh các hòn đảo và địa điểm này.

Học thuyết quốc phòng hiện tại của Việt Nam được xác định vào năm 1987, khi Nghị quyết số 2 của Bộ Chính trị đưa ra một học thuyết chiến lược mới gọi là “chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân.” Học thuyết này mang tính tự vệ trong thiết kế và yêu cầu sát nhập lực lượng gồm vài triệu quân dự bị, lực lượng tự vệ thành thị và dân quân vùng thôn quê vào thành lực lượng chính qui. Những đơn vị này với tên chung là Lực lượng Vũ trang Nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, an ninh trong nước và đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội bằng cách quản lý các khu vực kinh tế – quốc phòng tại những vùng xa xôi. Lực lượng chính qui, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), bao gồm lục quân, hải quân, phòng không không quân và biên phòng. Học thuyết quốc phòng mới này cũng đặt ra các ưu tiên đối với ngành công nghệ quốc phòng và việc thiết lập một chương trình giảng dạy quốc phòng bắt buộc cho toàn bộ học sinh.
Trong giữa những năm 1990, Việt Nam đã đưa ra một nỗ lực khiêm tốn nhằm hiện đại hoá lực lượng hải quân và không quân của mình nhằm phản ứng lại những tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trên biển Đông. Nỗ lực này đã tăng tốc trong nửa thập niên qua, trong đó Nga đóng một vai trò then chốt như là nguồn cung cấp chủ yếu cho các đợt mua sắm thiết bị quân sự của Việt Nam.
Kể từ năm 2008, hải quân Việt Nam đã tiếp nhận hai tàu khu trục tàng hình gắn tên lửa hạng Gepard và bốn tàu tuần duyên cao tốc hạng Svetlyak có trang bị tên lửa chống hạm. Từ năm 2010, không quân Việt Nam đã mua 20 chiến đấu cơ Su-30MK2V có trang bị tên lửa không đối không lẫn tên lửa chống hạm. Việt Nam cũng tăng cường hệ thống phòng không và bảo vệ bờ biển với việc mua hai tổ hợp tên lửa phòng không có khả năng tác chiến cao S-300 MPM-1 và hai tổ hợp tên lửa K-300P Bastion phòng thủ bờ biển. Quan trọng hơn, Việt Nam cũng đã đặt hàng với Liên Xô sáu chiếc tàu ngầm phi hạt nhân tấn công nhanh hạng Kilo, hai chiếc đầu tiên sẽ được bàn giao vào tháng Tám 2013. Tháng Tám 2011, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tuyên bố rằng ông dự định sẽ triển khai một hạm đội tàu ngầm hiện đại vào năm 2016-2017. Việt Nam cũng đã đặt hàng mua bốn chiếc tàu hộ tống hạng Sigma của Hà Lan.
Những đợt mua vũ khí gần đây cho thấy thêm một số yếu tố dẫn đến việc cần thiết để hiện đại và nâng cấp hệ thống vũ khí và khí tài hiện có. Những yếu tố này bao gồm tầm quan trọng ngày càng cao của nền kinh tế biển Việt Nam, việc hiện đại hoá các lực lượng quân sự khác trong vùng cũng như việc đưa kỹ nghệ quân sự mới vào khu vực. Nhưng không có vấn đề nào khẩn thiết đối với vị thế quốc phòng của Việt Nam bằng việc tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc trên biển Đông, vốn càng trở nên cấp bách hơn vào năm 2007, khi Trung Quốc trở nên hung hãn hơn trong việc một mực đòi hỏi “chủ quyền không thể chối cãi” trên vùng biển bị tranh chấp.
Là một phần của chủ trương gây hấn hơn, Trung Quốc đã sách nhiễu các ngư nhân Việt Nam, tạo áp lực lên các công ty dầu mỏ nước ngoài phải rút ra khỏi Việt Nam và can thiệp vào hoạt động của các tàu thăm dò dầu khí trong đặc khu kinh tế Việt Nam. Đã có ít nhất ba sự kiện công khai cắt cáp những chiếc tàu thăm dò địa chấn có hợp đồng khảo sát trong khu vực EEZ của Việt Nam. Để đáp ứng với những căng thẳng tăng cao, năm ngoái Việt Nam đã khởi động những chiếc Su-27 và Su-30 bay tuần tra trên biển Đông.
Bên cạnh việc hiện đại hoá quân sự để tự giúp mình, Việt Nam cũng đã đáp trả lại thái độ cứng rắn của Trung Quốc bằng chính sách ngoại giao phòng thủ trong một nỗ lực nhằm kêu gọi ủng hộ từ các cường quốc hàng hải. Ví dụ vào năm 2010, Việt Nam đã sử dụng vị thế chủ tịch ASEAN của mình để vận động Hoa Kỳ và những cường quốc khác can tiệp vào tranh chấp biển Đông tại hội nghị bán niên của Diễn đàn Khu vực ASEAN và tại phiên họp khai mạc Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng trong tháng Mười cùng năm.
Kết quả là quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ được xem như là một động thái cân bằng ngoại giao đầy tinh tế không khác nào việc xử lý quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Việt Nam đã nâng các đối thoại chiến lược với Trung Quốc và Hoa Kỳ lên mức thứ trưởng và tiếp xúc quân sự đến quân sự với cả hai.
Đối với Trung Quốc, vào tháng Mười một 2008 Việt Nam đã mời hải quân Trung Quốc quay lại thăm cảng sau 17 năm vắng bóng. Các tàu hải quân Trung Quốc hiện đến thăm hàng năm. Trong tháng Giêng này, hai tàu khu trục và một tàu tiếp vận đã có chuyến thăm hữu nghị tại Thành phố Hồ Chí Minh sau chuyến đi đến Vịnh Aden. Hải quân Việt Nam cũng đã có chuyến thăm cảng ở Trung Quốc vào tháng Sáu 2009 và đã quay lại lần nữa vào tháng Sáu 2011.
Vào tháng Tám 2011, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức Đối thoại Chiến lược Quốc phòng An ninh lần thứ hai, trong đó hai bên đồng ý tăng cường trao đổi quân sự và thiết lập một đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng. Trung Quốc và Việt Nam cũng đã mở rộng phạm vi tuần tra chung trên Vịnh Bắc bộ vốn được khởi đầu từ tháng Tư 2006. Chuyến tuần tra chung lần thứ 13 được tiến hành vào tháng Sáu 2012 bao gồm những thao tập báo hiệu ngày và đêm và các cuộc tập trận chống hải tặc. Vào tháng Chín 2012, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức cuộc hội thảo an ninh quốc phòng lần thứ sáu trong đó hai bên đồng ý “tiếp tục các chuyến thăm cao cấp, tăng cường đối thoại và tham vấn, phát triển hợp tác trên các lĩnh vực đào tạo nhân viên, trao đổi biên giới và các vấn đề hải quân và an ninh đa phương.”
Trong cùng thời gian, Việt Nam cũng đã ve vãn Hoa Kỳ bằng hàng loạt những tiếp xúc cấp cao và tiếp xúc quân sự với quân sự tương tự. Trong năm 2009, các quan chức Việt Nam bắt đầu hàng loạt các chuyến bay ra những tàu sân bay của Hoa Kỳ đang vận chuyển ngang biển Đông. Năm 2010, việc viếng thăm cảng thường niên của hải quân Hoa Kỳ đến Việt Nam được mở rộng thêm để bao gồm các hoạt động hải quân chung. Việt Nam cũng đã đồng ý tiểu tu những chiếc tàu thuộc Tư lệnh Hải vận Quân sự quá cảnh, sửa chữa gần đây nhất được thực hiện tại khu vực cảng thương mại dân sự ở Vịnh Cam Ranh. Mặc dù chủ yếu chỉ mang tính biểu tượng, ba tiến triển này cũng phục vụ cho mục đích của Việt Nam nhằm báo hiệu cho Trung Quốc biết rằng Hoa Kỳ là một đối tượng chính danh và đang được chào đón trong vấn đề an ninh hàng hải khu vực.
Quan hệ an ninh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ càng được củng cố thêm vào tháng Mười một 2011, tại cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng Hoa Kỳ – Việt Nam lần thứ hai, trong đó cả hai bên ký kết một bản ghi nhớ nhận diện năm lĩnh vực ưu tiên hợp tác: thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại quốc phòng cấp cao, an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu hộ, công tác giữ gìn hoà bình, viện trợ nhân đạo và hỗ trợ thiên tai của Liên Hiệp Quốc. Ví dụ gần đây nhất về đối thoại quốc phòng cấp cao là chuyến thăm Hà Nội của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta vào tháng Sáu 2012 để đáp lại chuyến thăm Washington năm 2009 của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Tướng Phùng Quang Thanh. Panetta đã làm một chuyến đi vòng bất ngờ đến Vịnh Cam Ranh để gặp gỡ toán nhân viên của một chiếc tàu thuộc Tư lệnh Hải vận Quân sự đang nằm sửa chữa. Chuyến thăm của ông đã khiến giới truyền thông dự đoán rằng Hải quân Hoa Kỳ có thể quay trở lại căn cứ cũ của mình. Tuy nhiên các quan chức Việt Nam đã nhanh chóng nhấn mạnh rằng hải quân của bất cứ quốc gia nào cũng có thể sử dụng các cơ sở sửa chữa dân sự tại Cam Ranh, nhưng không quốc gia nào được phép mở căn cứ quân sự tại Việt Nam.
Cuộc gặp gỡ giữa Panetta và Thanh chủ yếu chú trọng vào việc xem xét tiến trình mà họ đã thoả thuận vào năm 2011. Thanh dọn đường cho mối hợp tác tương lai khi đề cập đến những vấn đề an ninh phi truyền thống như viện trợ nhân đạo, hỗ trợ thiên tai và tìm kiếm cứu hộ. Ông yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ thêm để giải quyết những hệ quả từ cuộc chiến Việt Nam, ví dụ như dọn dẹp Chất độc Da cam và bom nổ chậm. Ông cũng yêu cầu Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam. Panetta đáp trả bằng các đề nghị Việt Nam cho phép thiết lập Văn phòng Hợp tác Quốc phòng tại Hà Nội để tạo điều kiện cho những tiếp xúc tương lai.
Bên cạnh những tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, việc hiện đại hoá quân đội và cân bằng quan hệ an ninh với Trung Quốc và Hoa Kỳ, những thách thức lớn của quốc phòng Việt Nam bao gồm “chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao… khủng bố, tội phạm công nghệ cao và liên quốc gia,” theo báo các chính trị đọc tại Đại hội Đảng Toàn Quốc lần thứ 11 vào tháng Giêng 2011. Để đối phó với những thử thách này, bản báo cáo đề nghị phải bảo đảm “lực lượng vũ trang ngày càng tiếp cận với thiết bị hiện đại trong đó ưu tiên cho các lực lượng hải quân, không quân, an ninh, tình báo và cảnh sát cơ động.”
Các lực lượng chính qui của QĐNDVN đóng quân trên khắp đất nước và có nhiệm vụ chính là phản công lại bất kỳ cuộc tấn công nào vào Việt Nam, tham gia các cuộc tập trận hàng năm, bao gồm toàn bộ các binh chủng ở toàn bộ các cấp từ trung đội đến quân đoàn. Theo những nhà quan sát quân sự ngoại quốc, khi so sánh khả năng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Việt Nam với những quốc gia Đông Á khác trong bốn lĩnh vực chủ chốt (bảo vệ lãnh thổ, chiếm đóng lãnh thổ, vai trò cảnh sát, tấn công chiến lược) với thước đo ở bốn mức độ (kém, trung bình, tốt, rất tốt), QĐNDVN xếp hạng tốt trong lĩnh vực bảo vệ lãnh thổ, trung bình trong khả năng chiếm giữ lãnh thổ và thực hiện vai trò cảnh sát, và kém trong lĩnh vực tấn công chiến lược. Đến năm 2015, chương trình mua sắm vũ khí hiện nay của Việt Nam sẽ không thể nâng cao khả năng chiến đấu của QĐNDVN trong ba lĩnh vực đầu, nhưng được trông đợi là sẽ nâng khả năng tấn công chiến lược của QĐNDVN từ kém lên trung bình.
Những Ưu tiên Chiến lược
Việt Nam hiện nay đang đối diện với những thử thách to lớn về chính sách kinh tế, chính trị, quốc phòng và chính sách đối ngoại.
Trên mặt trận kinh tế, năm 2009 Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp của Ngân hàng Thế giới. Tổng Sản lượng Nội địa (GDP) của Việt Nam, được đo lường bằng cách so sánh sức mua, hiện đang đứng thứ 40 trên thế giới. Ngành công nghiệp chiếm 41% số GDP và bao gồm chủ yếu ngành sản xuất nhẹ trên cách lĩnh vực chế biến thực phẩm, vải sợi, thuốc lá và hoá chất. Hiện tại các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam bao gồm nông sản (17%), dầu thô (11%), vải sợi, quần áo và giày dép (7%). Bốn thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam bao gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Úc, và các nguồn nhập khẩu lớn nhất là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc. Năm 2008, công ty PricewaterhouseCoopers dự đoán rằng đến năm 2025 Việt Nam sẽ trở thành một trong những nền kinh tế mới nổi phát triển nhanh nhất. Tuy nhiên, Việt Nam phải thực hiện những cải cách lớn về cơ chế để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Điều này phải cần đến một nỗ lực nghiêm trọng nhằm cải cách hệ thống ngân hàng và tài chính quốc gia và tái cơ cấu lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước đang chồng chất nợ nần. Những việc này và các cải tổ khác thì cần thiết để đạt lại tỉ lệ tăng trưởng cao và bắt kịp mục tiêu lâu dài của Việt Nam là trở thành một quốc gia hiện đại và công nghiệp hoá vào năm 2020.
Trên mặt trận chính trị, Việt Nam cũng phải giải quyết vấn đề bệnh tham nhũng lan tràn đầy dẫy cũng như ảnh hưởng của các nhóm lợi ích tư nhân đang đứng trên pháp luật. Đây sẽ là một quá trình khó khăn và có tiềm năng gây bất ổn vì những mạng lưới này đã nở rộ dưới sự bảo trợ của các quan chức cấp cao. Năm 2012, đã có tranh chấp nội bộ nghiêm trọng giữa hai thành phần trong ĐCSVN về vấn đề này, gần đến mức hạ bệ vị thủ tướng.
Có nhiều mặt trong thách thức về quốc phòng của Việt Nam. Trước tiên, không chỉ cần phải tìm ra ngân sách để tài trợ cho chương trình mua sắm vũ khi đầy tham vọng mà còn cả ngân sách để bảo trì và sữa chữa những hệ thống này. Một ví dụ quan trọng là nguồn tài trợ suốt đời cho sáu chiếc tàu ngầm hạng Kilo mà Việt Nam sẽ mua trong 5 năm tới. Vào năm 2012, ngân sách quốc phòng chính thức được dự đoán ở mức 3,3 tỉ Mỹ kim, hoặc 2,5% GDP. Chi phí quốc phòng trong tương lai sẽ gắn chặt với sự mức tăng trưởng GDP.
Thứ hai, Việt Nam đang đối diện với những thử thách nghiêm trọng trong việc hội nhập những hệ thống vũ khí mới vào cơ chế lực lượng hiện tại. Ví dụ như các nhà phân tích hải quân khu vực cho rằng binh chủng hải quân của QĐNDVN với cơ cấu tổ chức hiện tại, sẽ không có khả năng vận hành một hạm đội gồm sáu tàu ngầm hạng Kilo một cách hiệu quả. Hơn nữa, Việt Nam vẫn chưa làm chủ được cuộc cách mạng về các vấn đề quân sự và chưa tạo ra được những nhóm tổng hợp hải-không quân thực sự có thể hoạt động được. Việt Nam có thể phải tính đến việc cắt giảm kích thước của quân đội thường trực để tài trợ và xây dựng lực lượng hải quân và không quân của mình.
Thứ ba, Đại hội Đảng lần thứ 11 đã ưu tiên việc hợp tác quốc phòng quốc tế, được xem như là một phần trong mỗi tám thoả thuận đối tác chiến lược. Một ưu tiên chủ chốt của Việt Nam là biến những ý định này thành thành quả hiện thực để giúp ích cho QĐNDVN. Việt Nam cũng đưa ra ưu tiên trong việc đóng góp quân sự khiêm tốn vào công tác giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Thực hiện những mục tiêu này ra sao sẽ đóng một vai trò trong việc đánh giá khả năng luyện tập và tính sẵn sàng của các lực lượng vũ trang Việt Nam.
Việt Nam cũng đang đối điện với nhiều thử thách về chính sách đối ngoại, nổi bật nhất là việc xử lý mối quan hệ với Trung Quốc nhằm tránh việc tranh chấp biển Đông làm cản trở mối quan hệ song phương rộng lớn hơn. Hiện tại, ĐCSVN đang xem xét và sửa đổi nghị quyết hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần tám (2003) để bảo đảm có được một hướng đi quân bình hơn trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Một ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại là phát triển tính đoàn kết trong khối ASEAN và tăng cường khả năng đối phó với các vấn đề an ninh khu vực. Việt Nam sẽ vận động để đóng vai trò chủ động hơn trong nhóm các bộ trưởng quốc phòng và tham mưu trưởng khối ASEAN nhằm giải quyết vấn đề an ninh hàng hải, bao gồm tuần tra chung và tập trận hải quân. Việc này có thể củng cố ưu tiên khác của Việt Nam là tạo sự ổn định trên biển Đông, trong khi Hà Nội tiếp tục thúc đẩy ASEAN có được một quy tắc ứng xử hiệu quả hơn nhằm quân bình sự cứng rắn của Trung Quốc trong vùng.
Việt Nam cũng ưu tiên cho sự đoàn kết của ASEAN nhằm củng cố hai cơ phận đa phương khu vực mới là Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á trong việc đối phó với các cường quốc chính, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam đã đặt ưu tiên trong việc tăng cường thành viên của hai cơ phận này cũng như của Hội nghị Á Âu bằng cách bao gồm những đối tác chiến lược từ châu Âu là Đức và Anh.
Trong khi đó, Việt Nam đã tạo ưu tiên trong việc tăng cường danh sách gồm tám đối tác chiến lược của mình để bao gồm thêm Ý, Pháp, Singapore, Indonesia và Hoa Kỳ. Chắc chắn Việt Nam sẽ đạt được những thoả thuận đối tác chiến lược vào năm tới với tất cả các quốc gia trên ngoại trừ Hoa Kỳ, do những cố gắng tăng cường quan hệ đang bị chững lại vì thành tích nhân quyền yếu kém của Việt Nam. Việt Nam phải giải quyết vấn đề này để chính quyền Obama nới lỏng những giới hạn trong việc bán vũ khí cho Việt Nam chiếu theo Qui chế Buôn bán Vũ khí Quốc tế.
Ưu tiên chiến lược cuối cùng của Việt Nam là bắt đầu chuẩn bị vào giữa năm cho Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ 12, được dự định tổ chức vào năm 2016. Mối quan tâm chủ chốt là việc lựa chọn đội ngũ lãnh đạo mới cho ĐCSVN.
Việt Nam đang nhanh chóng nổi lên như một cường quốc hạng trung quan trọng ở Đông nam Á. Nó có trong tay nguồn lực dồi dào về ngoại giao, kinh tế và quốc phòng để có thể có những đóng góp quan trọng vào mục tiêu tạo ra một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Trên mặt trận ngoại giao, Việt Nam vẫn còn có nhiều việc phải làm để cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ và để giữ vững tính thống nhất và đoàn kết trong khối ASEAN. Việt Nam đang đối diện với thử thách có lẽ là dữ dội nhất trong việc cải cách kinh tế, đạt lại tỉ lệ tăng trưởng cao và giữ gìn ổn định. Cuối cùng, Việt Nam sẽ đối diện với những cản trở quan trọng trong việc hội nhập những hệ thống vũ khí khí tài hiện đại mới mua để chúng có thể được triển khai một cách hiệu quả. Thất bại trên bất cứ mặt trận nào cũng có thể dẫn đến việc giảm giá trị vai trò chiến lược của Việt Nam trong các vấn đề khu vực và bị trống lưng khi đối phó với Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông.
Carlyle A. Thayer là giáo sư danh dự Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Úc, Canberra và là giám đốc công ty Tư vấn Thayer.

Không có nhận xét nào: