Bế mạc Hội Nghị Lần Thứ 11 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Khóa XI. Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
Thực hiện chương trình công tác toàn Khóa, từ ngày 04 đến ngày 07-5-2015, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã họp Hội nghị lần thứ 11 để thảo luận, cho ý kiến về: 1- Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; 2- Số lượng đại biểu và phân bổ đại biểu dự Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng; 3- Thảo luận, cho ý kiến về mô hình tổ chức chính quyền địa phương; 4- Chủ trương đầu tư Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành; 5- Đóng góp ý kiến về báo cáo các công việc Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau hội nghị Trung ương 10 đến nay.
Tham dự Hội nghị có 173 đồng chí Ủy viên Trung ương chính thức, 24 đồng chí ủy viên Trung ương Dự khuyết, 54 đồng chí không phải là UV BCH TW (gồm các đồng chí là Phó Chủ nhiệm và Ủy viên UBKT Trung ương; Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy và đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Chính ủy Quân khu, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Ủy viên UBTV Quốc hội, Tổng Giám đốc TTXVN, TGĐ Đài Tiếng nói Việt nam, TBT Tạp chí Cộng sản, và các đồng chí Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Hội nghị đã hoàn thành chương trình đề ra với những nội dung chủ yếu sau:
I. TÌNH HÌNH, NỘI DUNG HỘI NGHỊ
1. Hội nghị thảo luận, thông qua phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.
Về phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, từ nay đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, cùng với việc tiếp tục hoàn thiện các dự thảo Văn kiện Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương phải tập trung chuẩn bị nhân sự Đại hội theo quy định của Điều lệ Đảng. Đây là nhiệm vụ rất hệ trọng, đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị phải dày công chuẩn bị theo một quy trình chặt chẽ và tiến độ phù hợp.
Tại hội nghị này, Trung ương đã cho ý kiến, thảo luận và quyết định phương hướng nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII để làm cơ sở cho việc chuẩn bị nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII và nhân sự lãnh đạo chủ chốt các cơ quan Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 tại các hội nghị tiếp theo.
Báo cáo của Bộ Chính trị trình Trung ương đã nêu khá đầy đủ về yêu cầu xây dựng Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; số lượng, cơ cấu, quy trình giới thiệu, lựa chọn và một số chủ trương cần lãnh đạo thực hiện trong quá trình chuẩn bị và triển khai công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương.
Về tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong thời điểm hiện nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gợi ý cần nhấn mạnh phải có bản lĩnh chính trị thật vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của Dân tộc; có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu; không tham nhũng, cơ hội, tham vọng quyền lực; có ý thức giữ gìn và bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, được quần chúng thực sự tin yêu.
Phải là người có tinh thần trách nhiệm rất cao, thật sự công tâm, khách quan, trong sáng, gương mẫu, chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, quy chế, quy định của Đảng, đặt sự nghiệp chung của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, bè phái, "lợi ích nhóm"...
2. Về số lượng và việc phân bổ đại biểu dự Đại hội XII
Tổng Bí thư nêu rõ, nguyên tắc phân bổ đại biểu phải thực hiện theo Quy định của Điều lệ Đảng, có số lượng hợp lý, tiêu biểu cho trí tuệ của toàn Đảng, bảo đảm thành công của Đại hội. Căn cứ để phân bổ đại biểu dự Đại hội Đảng dựa trên 3 tiêu chí: Đầu mối đảng bộ trực thuộc Trung ương, số lượng đảng viên của từng Đảng bộ, vị trí quan trọng của một số đảng bộ. Sau khi Ban Chấp hành Trung ương thống nhất về nguyên tắc và các căn cứ phân bổ đại biểu, Bộ Chính trị sẽ quyết định cụ thể số lượng đại biểu của từng Đảng bộ dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
3. Về Dự án Sân bay quốc tế Long Thành,
- Đây là Dự án đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, có ý nghĩa to lớn đối với toàn vùng động lực phát triển phía Nam và cả nước, có tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực, có tổng vốn đầu tư lớn và thời gian thực hiện dài, sử dụng một diện tích đất đai lớn, ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập và môi trường sống của hàng chục vạn người dân.
Vì vậy, mặc dù Trung ương đã cho chủ trương chung và ngay từ năm 2005, Ban cán sự Đảng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giao thông & Vận tải lập báo cáo tiền khả thi, đến nay đã hoàn thành, trình Hội đồng thẩm định Nhà nước và được Chính phủ thông qua. Nhưng tại Hội nghị lần này, Trung ương vẫn cần cho ý kiến về các vấn đề nêu trong Tờ trình và Báo cáo đầu tư Dự án của Ban cán sự Đảng Chính phủ, có kết luận định hướng để Quốc hội xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật.
- Trung ương tập trung cho ý kiến về sự cần thiết, tính khả thi của Dự án; nhu cầu sử dụng đất và giải phóng mặt bằng; phương án tái định cư, bảo đảm việc làm và môi trường sống đồng bào vùng di dời; phương án lựa chọn công nghệ, kỹ thuật và mô hình quản lý, vận hành, khai thác sau khi Dự án hoàn thành; hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án; cơ chế đặc thù cho Dự án; các kiến nghị, đề xuất của Ban cán sự Đảng Chính phủ.
Lý do phải xây dựng Sân bay quốc tế Long Thành
Cảng hàng không Tân Sơn Nhất đang khai thác ở mức trên 12 triệu hành khách/năm (gồm 6 triệu hành khách quốc tế và 6 triệu hành khách nội địa) và 278.000 tấn hàng hóa/năm. Trong vòng 15 năm qua, lượng hành khách quốc nội tăng 13,4%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng hành khách quốc tế (khoảng 9,3%). Theo đơn vị tư vấn, vào năm 2030, nhu cầu ở các sân bay khu vực vùng TP.HCM sẽ đạt mức 44,5 triệu lượt hành khách/năm và 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm. Với thực tế này, dù Cảng hàng không Tân Sơn Nhất vừa được đầu tư mở rộng với công suất được nâng lên khoảng 20 triệu hành khách/năm (dự kiến trong khoảng thời gian 2015-2020 sẽ đạt đến công suất thiết kế) cũng không thể phục vụ đủ nhu cầu. Tông Công ty Hàng không Việt Nam (ACV) cho biết, vì lý do này mà Chính phủ đặt ra yêu cầu xây dựng để khai thác Sân bay Long Thành càng sớm càng tốt trước năm 2020.
Quy mô đầu tư mức tối thiểu
Trong báo cáo đầu tư trình Hội đồng Thẩm định nhà nước, ACV đề xuất quy mô giai đoạn 1 sân bay Long Thành với công suất 25 triệu lượt hành khách/năm và 1,2 triệu tấn hàng hóa, gồm 2 đường băng song song, đáp ứng khai thác loại máy bay thân lớn A380 hoặc tương đương. Theo ông Nguyễn Nguyên Hùng, Chủ tịch Hội đồng Thành viên ACV, chi phí đầu tư giai đoạn 1 bao gồm giải phóng mặt bằng, xây dựng khoảng 5,6 tỉ USD từ nguồn vốn của ACV, ngân sách nhà nước, ODA và cổ phần một số hạng mục đầu tư của dự án.
Theo Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, giai đoạn 1 chỉ nên đầu tư ở quy mô 17 triệu hành khách/năm với 1 đường băng để giảm gánh nặng vốn và tận dụng khả năng khai thác của sân bay Tân Sơn Nhất (TSN). Về lý thuyết, sân bay có 5 triệu khách/năm trở lên đã phải xây dựng 2 đường băng để bảo đảm khai thác ổn định trong mọi tình huống. Song, TSN chỉ cách sân bay Long Thành 40 km đường chim bay nên có thể là sân bay dự bị, khi có sự cố ở Long Thành vẫn không làm gián đoạn các hoạt động bay.
Bộ trưởng Giao thông Vận tải đã đồng ý với đề xuất của Cục Hàng không Việt Nam và giao ACV xem xét, rà soát lại Dự án. Theo đó, trong tình hình khó khăn chung hiện nay, chỉ nên phân kỳ đầu tư xây dựng Sân bay Long Thành ở quy mô tối thiểu.
ACV lý giải đến năm 2016, sân bay TSN sẽ đạt hết công suất 25 triệu lượt khách/năm. Trong khi đó, dự báo lượng hành khách qua lại khu vực TP.Hồ Chí Minh vào năm 2020 khoảng 30,3 triệu người, năm 2030 khoảng 53,4 triệu người nên cần phải xây dựng một sân bay quốc tế cấp 4F (có công suất 100 triệu lượt khách và 5 triệu tấn hàng hóa/năm), vừa có khả năng chia sẻ gánh nặng cho sân bay TSN vừa có chức năng trung chuyển quốc tế trong khu vực.
Bộ trưởng Giao thông Vận tải yêu cầu ACV cần làm rõ hơn sự cần thiết phải đầu tư Dự án. Theo đó, lý giải cụ thể, có tính thuyết phục lý do đầu tư xây dựng Sân bay quốc tế Long Thành.
Chia dự án làm 3 giai đoạn đầu tư
Theo quy hoạch đã được phê duyệt, sân bay Long Thành dự kiến phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (đến năm 2020), hình thành một sân bay công suất 25 triệu hành khách/năm, đưa vào khai thác để hỗ trợ tình trạng quá tải của cảng hàng không TSN;
- Giai đoạn 2 (đến năm 2030), nâng công suất lên 50 triệu hành khách/năm theo nhu cầu phát triển khai thác hàng không;
- Giai đoạn 3 (sau năm 2030), nâng công suất lên 100 triệu hành khách/năm và Long Thành trở thành Cảng hàng không quốc tế trung chuyển.
Điều chỉnh dự án
Ngày 26/2/2015, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng đã báo cáo bổ sung về dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành với Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó tổng đầu tư dự kiến cho Dự án này là 15,8 tỷ USD, ít hơn 2,9 tỷ USD so với phương án trước đó (18,7 tỷ). Riêng giai đoạn 1, vốn đầu tư được giảm còn hơn 5,2 tỷ USD so với hơn 7,8 tỷ USD như trước đó (giảm 2,6 tỷ USD). Việc giảm tổng mức đầu tư dự kiến là do rà soát và tính toán chi tiết hơn theo báo cáo vào tháng 10-2014. Cụ thể, việc điều chỉnh quy mô, phạm vi giải phóng mặt bằng và tái định cư giảm từ 5.000 ha (toàn bộ diện tích quy hoạch) xuống 2.750 ha (diện tích đất dành cho hàng không dân dụng), đã giúp giảm hơn một nửa khoản chi này (khoảng 535 triệu USD). Bên cạnh đó, do chỉ xây dựng 1 đường hạ, cất cánh trong giai đoạn 1 và tính toán chuẩn xác suất đầu tư cũng giúp giảm hơn 1 tỷ USD...
Với việc điều chỉnh diện tích của Dự án, có hai phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Phương án 1, diện tích 5.000 ha thì tổng mức đầu tư là 18,7 tỷ USD, trong đó, giai đoạn 1 là 7,8 tỷ USD (tương đương 164.589 tỷ đồng), giai đoạn 2 là 3,3 tỷ USD và giai đoạn 3 là 7,6 tỷ USD. Kinh phí thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư là 13.104 tỷ đồng. Về tái định cư, tỉnh Đồng Nai đã tiến hành quy hoạch hai khu gồm: Lộc An - Bình Sơn (282,35 ha) và Bình Sơn (282,3 ha). Tổng mức đầu tư hai khu tái định cư này là 5.390 tỷ đồng, từ nguồn ngân sách Trung ương.
Phương án 2, dự án Sân bay Long Thành với diện tích 2.750 ha cần tổng mức đầu tư các giai đoạn khoảng 15,8 tỷ USD, trong đó giai đoạn 1 là 5,2 tỷ USD (tương đương khoảng 109.970 tỷ đồng). Trong đó, kinh phí bồi thường giải phóng mặt bằng và tái định cư là 8.557 tỷ đồng. Về tái định cư với quy mô điều chỉnh còn 2.750 ha theo đề nghị của Bộ Giao thông & Vận tải thì chỉ cần xây dựng một khu tái định cư Lộc An - Bình Sơn (282,35 ha) sẽ đáp ứng đủ yêu cầu tái định cư cho các hộ dân bị giải tỏa trắng trong diện tích 2.750 ha. Tổng mức đầu tư khu tái định cư này là 2.695 tỷ đồng, từ nguồn ngân sách Trung ương.
Để giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất, tỉnh Đồng Nai dự kiến sẽ bố trí việc làm cho người dân tại các khu công nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Theo quy hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã được Chính phủ phê duyệt đến năm 2015 và định hướng năm 2020, sẽ có 35 khu công nghiệp với tổng diện tích 12.012 ha. Đến nay, đã đầu tư xây dựng hạ tầng được 31/35 khu công nghiệp. Sau khi xây dựng hạ tầng 4 khu công nghiệp còn lại với diện tích đất cho thuê 564,5 ha, dự kiến giải quyết việc làm cho thêm 61.530 lao động. Bên cạnh đó, khi xây dựng Sân bay Long Thành sẽ cần 20.000 lao động để thi công, với tỷ lệ lao động phổ thông khoảng 75%. Theo đánh giá của tỉnh Đồng Nai, với nhu cầu lao động như trên, Tỉnh sẽ đảm bảo giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho các hộ dân có đất bị thu hồi thuộc Dự án sân bay Long Thành.
Lãnh đạo tỉnh Đồng Nai cho biết, Tỉnh đã cơ bản hoàn thành hồ sơ, thủ tục dự án khu tái định cư. Sau khi được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư Sân bay Long Thành, tỉnh sẽ đề nghị cho phép tách bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư thành tiểu dự án và giao cho tỉnh Đồng Nai làm chủ đầu tư thực hiện. Dự kiến, việc xây dựng khung chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư và đề án đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất sẽ được hoàn thành trong tháng 6 để trình Chính phủ phê duyệt.
Ý kiến phản biện
- Dự án đang có nhiều ý kiến tranh luận giữa các cơ quan chủ trì xây dựng Đề án là Bộ Giao thông & Vận tải và các nhà quản lý nhất là quản lý hàng không, các nhà khoa học, các phi công…với khoảng cách các thông số khá xa trên nhiều vấn đề cơ bản của Dự án từ quan điểm nhận thức đến các vấn đề kỹ thuật và quản lý quan trọng về hàng không dân dụng.
- Sự khác biệt đó tập trung vào các vấn đề như:
+ Tính cấp thiết và hiệu quả kinh tế - xã hội của Sân bay Long Thành;
+ Giữa nâng cấp Sân bay Tân Sơn Nhất và xây mới Sân bay Long Thành nên chọn phương án nào;
+ Các vấn đề Vốn đầu tư Sân bay Long Thành bao gồm chi phí đầu tư và khai thác, cơ cấu nguồn vốn trong đó quan trọng nhất là vấn đề vốn nhà nước và vốn xã hội hoá, chi phí đến bù bao nhiêu là phù hợp...
- Nhằm làm rõ vấn đề này, trước đó (ngày 21/3/2015), Hội Tư vấn Khoa học và Quản lý TP.Hồ Chí Minh (HASCON) tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề "Xây mới Sân bay Long Thành hay nâng cấp Sân bay Tân Sơn Nhất". Ban tổ chức Hội thảo cho biết, đại diện các đơn vị như Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Giao thông & Vận tải, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và môi trường Quốc hội... đã tham dự Hội thảo.
Tham dự Hội thảo có các nhà khoa học, chuyên gia hàng không, đã có nhiều bài tham luận, ý kiến phát biểu thẳng thắn trình bày quan điểm, dẫn chứng khoa học và thực tế trên tinh thần xây dựng về các vấn đề xung quanh Dự án xây dựng Sân bay quốc tế Long Thành.
Trong 18 phát biểu, có 17 ý kiến đồng tình với việc “chưa nên hoặc không nên xây dựng Sân bay Long Thành, nên và có thể nâng cấp Sân bay Tân Sơn Nhất”. Chỉ có 1 ý kiến cho rằng “cần thiết xây dựng Sân bay Long Thành và không thể nâng cấp Sân bay Tân Sơn Nhất”.
Dựa vào kết quả cuộc thảo luận khoa học, Hội Tư vấn HASCON đã chính thức gửi kiến nghị trình Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ. Nội dung kiến nghị gồm 3 vấn đề:
Thứ nhất, kiến nghị Bộ Chính trị và Quốc hội chưa vội thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư xây dựng Sân bay quốc tế Long Thành.
Thứ hai, kiến nghị Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng không Việt Nam, Tổng Công ty Cảng Hàng không Việt Nam (ACV - Chủ đầu tư công trình) tranh luận trực diện với Hội Tư vấn HASCON về “Báo cáo đầu tư Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành” đã trình Quốc hội.
Thứ ba, nếu Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng không Việt Nam, ACV (Chủ đầu tư dự án) không có điều kiện tranh luận trực diện với Hội Tư vấn HASCON, Hội đề nghị Nhà nước tạo điều kiện để Hội tranh luận trực diện với Tổ chức tư vấn Nhật Bản, là Tổ chức đã lập “Báo cáo đầu tư Dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành” cho chủ đầu tư.
Kiến nghị này sẽ được Hội tư vấn HASCON gửi lên Thường trực Ban Bí thư, Văn phòng Quốc hội, Ủy ban kinh tế Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...
4. Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận, cho ý kiến về Tờ trình của Bộ Chính trị về mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền địa phương có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hội nghị đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra.
II. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI NGHỊ
Kết thúc Chương trình, Hội nghị đã quyết định ra Thông báo Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Nội dung chủ yếu gồm:
1. Về nhân sự cán bộ cấp chiến lược khóa XII
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận, cho ý kiến về Báo cáo của Bộ Chính trị về phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Trên cơ sở đánh giá ưu điểm, hạn chế và kinh nghiệm của công tác nhân sự qua 6 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng (từ Đại hội VI đến Đại hội XI), Trung ương khẳng định, việc lựa chọn để bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Đảng tại Đại hội XII của Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Để bảo đảm tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức.
1.1. Bốn yêu cầu xây dựng Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII là:
Lần đầu tiên Đảng ta nêu tiêu chí của BCH Trung ương - có ý kiến đề nghị đưa cả tiêu chuẩn về các đồng chí Lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, như sau:
(1) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII phải thật sự là một tập thể vững mạnh, đoàn kết thống nhất chặt chẽ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tầm nhìn chiến lược, có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo, ý chí chiến đấu cao, kỷ luật nghiêm minh, có tính đảng cao, biết lắng nghe, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, quy tụ được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân; có uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
(2) Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII cần có số lượng và cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tăng cường số lượng Ủy viên Trung ương ở các vị trí, địa bàn, lĩnh vực công tác quan trọng.
(3) Bảo đảm tính kế thừa và phát triển liên tục.
(4) Việc giới thiệu nhân sự, nói chung, phải trên cơ sở quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo; giữ vững nguyên tắc, quy chế, quy định; phát huy dân chủ, trách nhiệm trong giới thiệu, đánh giá, lựa chọn nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ tới; chống các biểu hiện cơ hội, tham vọng quyền lực, "chạy chọt", cục bộ, phe cánh…; cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại, gây rối nội bộ ta.
1.2. Tiêu chuẩn cán bộ cấp chiến lược
- Đối với Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Căn cứ tiêu chuẩn cán bộ quy định tại Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII) về "Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", tại Hội nghị này Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh 3 nhóm tiêu chuẩn gồm:
(1) Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và lợi ích của Dân tộc; có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, nói đi đôi với làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách; quyết liệt trong hành động, làm việc có hiệu quả.
(2) Có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và quần chúng tín nhiệm, biết lắng nghe; có tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ với công việc; bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, không tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để mưu lợi; có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình; công minh, công bằng trong đánh giá và sử dụng cán bộ.
(3) Có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy chiến lược để tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới; qua thực tiễn, thể hiện là người sáng tạo, nhiệt huyết, năng lực, làm việc có hiệu quả, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm (thực tiễn); đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công; có ý thức trách nhiệm và khả năng tham gia thảo luận, đóng góp vào các quyết định chung của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
- Đối với Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là những đồng chí:
+ Thật tiêu biểu của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu;
+ Có năng lực lãnh đạo quản lý, có tầm nhìn và tư duy chiến lược, có khả năng phân tích, dự báo, tổng hợp, đề xuất những vấn đề mới một cách đúng đắn;
+ Có trình độ hiểu biết sâu sắc về lý luận chính trị, biết phát hiện và sử dụng người có đức có tài;
+ Đã tham gia Ban Chấp hành Trung ương, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
+ Trong độ tuổi theo quy định và đủ sức khỏe để đảm đương nhiệm vụ.
- Kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương những người có một trong các khuyết điểm, như: Bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng; tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị; không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức; kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay. (Dựa vào dân, vào tổ chức đảng để nắm bắt tình hình).
- Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương cần có số lượng và cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, có tính kế thừa và phát triển. Tăng số lượng Ủy viên Trung ương ở các vị trí, địa bàn chiến lược, lĩnh vực công tác quan trọng; chú ý tăng thêm tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cần có 3 độ tuổi (dưới 50; từ 50 đến 60 và từ 61 tuổi trở lên). Trường hợp đặc biệt cần phải cơ cấu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngoài độ tuổi theo quy định thì Bộ Chính trị cân nhắc, trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định việc đề cử với Đại hội Đảng.
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng tán thành Báo cáo của Bộ Chính trị về phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, kết quả biểu quyết tại Hội nghị và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, hoàn chỉnh để ban hành phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XII; chỉ đạo Tiểu ban Nhân sự và các cơ quan có liên quan chuẩn bị dự kiến nhân sự giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khóa XII để trình Hội nghị Trung ương 12 thảo luận, cho ý kiến.
- Dự kiến số lượng Ủy viên Trung ương Đảng gồm 200 đồng chí (180 UV chính thức, 20 UV dự khuyết);
- Bộ Chính trị từ 17 - 19 đồng chí;
- Ban Bí thư từ 11-13 đồng chí;
- Độ tuổi tái cử:
+ UV BCH TW không quá 60
+ BCT, BBT không quá 65
- Kỳ họp Hội nghị BCH TW 12 sẽ chốt danh sách UVTW Đảng; Hội nghị 13, chốt danh sách BCT, BBT; Hội nghị 14, chốt danh sách cán bộ Lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước.
2- Việc phân bổ đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, kết quả biểu quyết tại Hội nghị và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, quyết định chính thức phân bổ số lượng đại biểu của các đảng bộ trực thuộc Trung ương dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Tổng số đại biểu dự Đại hội lần thứ XII là 1.510 đồng chí, phân bổ theo 3 tiêu chí sau:
- Phân bổ theo đầu mối đảng bộ trực thuộc Trung ương: 68 đảng bộ trực thuộc Trung ương mỗi đảng bộ được phân bổ 13 đại biểu.
- Phân bổ theo số lượng đảng viên tính đến 31/3/2015 của mỗi đảng bộ: cứ 11.000 đảng viên được phân bổ 01 đại biểu, nếu còn dư từ 5.501 đảng viên trở lên được phân bổ thêm 01 đại biểu.
- Phân bổ theo vị trí quan trọng của một số đảng bộ để tăng thêm đại biểu: Đảng bộ TP. Hà Nội, 08 đại biểu; Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh, 05 đại biểu; Đảng bộ Quân đội, 04 đại biểu; Đảng bộ Công an Trung ương, 04 đại biểu; Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, 14 đại biểu; Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương, 07 đại biểu tăng thêm.
- Đại biểu đương nhiên 197 đồng chí, gồm 173 Ủy viên Trung ương chính thức, 24 Uỷ viên Trung ương Dự khuyết.
3- Về tổ chức chính quyền địa phương
Việc thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường được thực hiện ở 10 tỉnh, thành phố với 67 huyện, 32 quận, 483 phường. 10 tỉnh, thành thực hiện thí điểm gồm: TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Quảng Trị, Kiên Giang, Đà Nẵng, Phú Yên và Bà Rịa - Vũng Tàu. Thời điểm bắt đầu thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường là ngày 25/4/2009. Qua 6 năm thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường cho thấy: Mô hình tổ chức chính quyền địa phương là vấn đề hệ trọng, phức tạp, nhạy cảm nên có nhiều ý kiến khác nhau. trong đó, có 2 loại ý kiến chủ yếu là:
(1) Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, ở đâu có chính quyền địa phương thì ở đó phải có HĐND do nhân dân địa phương bầu ra để quyết định các vấn đề của địa phương và giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật tại địa phương;
(2) Loại ý kiến thứ hai cho rằng, mô hình tổ chức chính quyền địa phương cần được tổ chức phù hợp với đặc điểm đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Trên cơ sở cân nhắc nhiều mặt, Bộ Chính trị đã trình Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tán thành với Tờ trình của Bộ Chính trị về mô hình tổ chức chính quyền địa phương, theo đó: "Tất cả các đơn vị hành chính quy định tại khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 đều tổ chức cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân". (Điều 110: “Nước chia thành tỉnh, TP trực thuộc TW, Tỉnh chia thành huyện, TX, TP thuộc tỉnh; TP trực thuộc TW chia thành Quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; TX & TP thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường”; đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Điều 111: “Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND & UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt do luật định)
Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ đạo Ban Cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội hoàn chỉnh Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII.
4- Về Dự án xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định sự cần thiết, đúng đắn của chủ trương đầu tư xây dựng Cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long Thành đã được Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 12-2011) đề ra, coi đây là Dự án đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu, trong quá trình nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện Dự án, cần lưu ý xác định rõ những tiêu chí, điều kiện tiền đề để trở thành một Cảng trung chuyển Hàng không quốc tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các sân bay trung chuyển quốc tế trong khu vực Đông Nam Á. Tính toán kỹ hiệu quả đầu tư, lộ trình, phân kỳ đầu tư sao cho khả thi, phù hợp với tình hình phát triển của ngành Hàng không Việt Nam và khả năng huy động nguồn lực cho đầu tư, phát triển; vấn đề sử dụng đất, phương án giải phóng mặt bằng và tái định cư; việc lựa chọn công nghệ, kỹ thuật và mô hình quản lý, vận hành, khai thác sau khi Dự án hoàn thành; hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả đầu tư của Dự án; tổng mức đầu tư và cơ cấu nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vấn đề huy động các nguồn vốn đầu tư của xã hội, khả năng hoàn vốn; biện pháp khắc phục tình trạng lâu nay các dự án đầu tư thường vượt quá cao so với dự toán ban đầu… Nghiêm túc lắng nghe và tiếp thu các ý kiến góp ý xác đáng và giải trình rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, nhất là ý kiến phản biện của các tổ chức, cá nhân có trình độ chuyên môn về các lĩnh vực có liên quan đến Dự án. Bảo đảm tính công khai, minh bạch; làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và sự đồng thuận cao trong xã hội. (Trình BCT xem xét cuối cùng).
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ tiếp thu ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị này để hoàn chỉnh Dự án và trình Quốc hội xem xét, quyết định tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII.
Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, tăng cường đoàn kết, thống nhất tư tưởng và hành động, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tiến hành thành công đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng./.
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Theo Dân Luận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét