Pages

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Việt Nam đối mặt với ‘tấn công quyến rũ” của Trung Quốc

Lê Hồng HiệpEastAsiaForum

Phạm Anh Tuấn TTHN dịch

“Vì vậy, việc “Trung Quốc hóa” ở Việt Nam cũng có thể được hiểu là “Viêt Nam hóa” các yếu tố của TQ. Tại cốt lõi của xã hội và văn hóa, Việt Nam vẫn còn sự hiện diện áp đảo của các giá trị văn hóa và xã hội và định mức bản địa, định hình bản sắc dân tộc của Việt Nam và hướng dẫn nhận thức của nó, và mối quan hệ với TQ.”
Việt Nam được cho là bị “Trung Quốc hóa” nhiều nhất trong các quốc gia ở Đông Nam Á, một kết quả đặc biệt của hơn 2000 năm của sự tương tác mạnh mẽ giữa Việt Nam và TQ.

Tuy nhiên, sự hấp thụ của nền văn hóa TQ vào Việt Nam không phải là một quá trình đơn giản cũng không phải một kết quả không thể tránh được vì sự gần gũi về địa lý, nó là do nhiều sắc thái hơn. Ảnh hưởng văn hóa của TQ chỉ tạo thành một lớp bản sắc văn hóa của Việt Nam. Các yếu tố quan trọng và đáng kể nhất vẫn thuộc về quy tắc bản địa, truyền thống dân tộc và thực hành, trong khi đó văn hóa của Việt Nam vay mượn từ khu vực Đông Nam Á và phương Tây tạo lớp khác.

Có hai đặc điểm hấp thụ từ các yếu tố văn hóa TQ hơn 2000 năm qua Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam đã sẵn sàng vay mượn văn hóa từ TQ miễn là nó là một quá trình nội bộ, tự nguyện hơn là áp đặt mạnh mẽ từ phía bắc. Thứ hai, vay mượn của Việt Nam từ TQ là một quá trình chọn lọc – hầu hết các ảnh hưởng của TQ được ràng lọc và điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu địa phương. Vì vậy, việc “Trung Quốc hóa” ở Việt Nam cũng có thể được hiểu là “Viêt Nam hóa” các yếu tố của TQ. Tại cốt lõi của xã hội và văn hóa, Việt Nam vẫn còn sự hiện diện áp đảo của các giá trị văn hóa và xã hội và định mức bản địa, định hình bản sắc dân tộc của Việt Nam và hướng dẫn nhận thức của nó, và mối quan hệ với TQ.
Một ví dụ cụ thể là sự truyền bá Nho giáo vào Việt Nam. Nho giáo đã được đưa vào Việt Nam trong suốt thời kỳ TQ thống trị kéo dài hơn 1000 năm. Nhưng nó không thể đạt được một chỗ đứng trong xã hội Việt Nam cho đến khi đất nước giành được độc lập từ TQ và bắt đầu dùng Nho giáo như một công cụ xây dựng đất nước chứ không phải là di sản văn hóa áp đặt bởi phương Bắc. Theo đó, triều đại nhà Lý xây dựng Văn Miếu năm 1070 để thờ Khổng Tử và thành lập Học viện Imperial sáu năm sau đó để giáo dục giới quý tộc và các quan chức Việt Nam theo Nho giáo. Trong triều đại nhà Lê, Nho giáo đã được nhiệt tình chấp nhận như là khuôn khổ ý thức hệ mà nhà nước Việt Nam và xã hội hoạt động.
Người Việt Nam cũng đã thay đổi đáng kể hệ tư tưởng nhập khẩu. Ví dụ, trái với những truyền thống Nho giáo TQ, xã hội Việt Nam đã có 1 sự công nhận lớn hơn nhiều quyền của phụ nữ và dành cho họ 1 địa vị cao hơn trong xã hội, và trong khi Khổng giáo ở TQ nhấn mạnh lòng trung thành với duy nhất 1 nhà lãnh đạo, Nho giáo ở Việt Nam nhấn mạnh trung thành với cả nhà lãnh đạo và ý thức của lòng yêu nước .
Lịch sử văn hóa của TQ ảnh hưởng đến Việt Nam bắt đầu cạn dần trong cuối thế kỷ 19, và các biểu tượng “Trung Quốc hóa” ở Việt Nam biến mất đi vào năm 1918. Chuyện này xảy ra với việc bãi bỏ tất cả các kỳ thi kiểm nghiệm kiến ​​thức các kinh điển Nho giáo, và kỹ năng trong văn xuôi và thơ ca bằng cách sử dụng các ký tự cả chữ Hán và chữ Nôm. Nhưng hơn 2000 năm tương tác với TQ đã để lại Việt Nam nhiều ảnh hưởng văn hóa TQ mà không thể đảo ngược qua 1 đêm.
Gần đây, với sự trỗi dậy của TQ như là một quyền lực toàn cầu, Việt Nam đã bị TQ quyến rũ , khi TQ tìm cách lây lan quyền lực mềm của mình trên toàn thế giới. Kể từ đầu 1990, Việt Nam đã bị nhận chìm trong văn hóa ‘sóng thần’ của một TQ thành công vượt trội qua các series truyền hình lịch sử TQ, âm nhạc, phim ảnh và tiểu thuyết kung-fu. Sự phổ biến của các sản phẩm văn hóa TQ tại Việt Nam – có thể lý giải bởi sự khan hiếm sản phẩm cùng loại của Việt Nam – cũng có thể được quy cho chất lượng của chúng, đã giúp chúng được tiếp nhận tích cực từ khán giả Việt Nam.
Nhưng ảnh hưởng quá độ của văn hóa TQ dường như đã báo động nhà nước và các nhà tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số nhà phê bình thậm chí còn phàn nàn rằng các series truyền hình TQ đã làm cho người Việt Nam thuộc lịch sử Trung Quốc hơn lịch sử dân tộc của mình. Điều này đã gây ra một số phản ứng từ chính phủ Việt Nam, bao gồm cả một nghị định của Chính phủ ban hành ra lệnh cho điện ảnh Việt Nam và phim truyền hình được chiếu ít nhất 30 đến 50% thời gian quy định cho 1 bộ phim trên bất kỳ đài truyền hình Việt Nam.
Mặc dù sự thành công rõ ràng của nền văn hóa TQ với khán giả Việt Nam, khả năng chống ảnh hưởng văn hóa TQ có vẻ trở nên mạnh mẽ hơn khi TQ quan tâm hơn đến những nỗ lực gây ấn tượng các giá trị văn hóa của họ. Ví dụ, các Viện Khổng Tử, một trong các thành phần chính của dự án quyền lực mềm tòan cầu của TQ, đã có những tiến triển nhỏ ở Việt Nam mặc dù thành công lớn trên toàn cầu.
“‘Tấn công quyến rũ” của TQ có khả năng mở rộng trên toàn cầu, nhưng có thể gặp phải những trở ngại lớn ở Việt Nam. Trong khi các vay mượn tự nguyện từ TQ đã hình thành một lớp quan trọng của nền văn hóa của đất nước, Việt Nam cũng là một đất nước nơi mà những kỷ niệm của một thiên niên kỷ của văn hóa đồng hóa TQ vẫn còn sống đến ngày nay. Do đó, các nỗ lực của TQ để truyền bá sức mạnh mềm của mình vào Việt Nam có khả năng bị giới hạn bởi các quen thuộc của đất nước với văn hóa TQ. Các kháng thể truyền thống của Việt Nam đối với ảnh hưởng văn hóa TQ hiện nay là thách thức rằng TQ phải vượt qua nếu “tấn công quyến rũ” của TQ muốn thành công ở nước láng giềng phía nam đặc biệt này.
*Lê Hồng Hiệp là giảng viên tại Khoa Quan hệ Quốc tế, Đại học Quốc gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, và hiện đang là một ứng cử viên tiến sĩ tại Đại học New South Wales, Học viện Quốc phòng Úc, Canberra.

Không có nhận xét nào: