Pages

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Tại sao Gấu Nga quay lại Việt Nam


Russian-Navy
Rakesh Krishnan Simha – Diên Vỹ chuyển ngữ
Quan hệ Nga-Việt có vẻ đã nguội đi sau Chiến tranh Lạnh nay đang ấm cúng trở lại. Hơn 20 năm sau khi Moscow rút khỏi căn cứ nước ngoài lớn nhất của mình, các máy bay quân sự Nga lại lần nữa nghênh đón khách viếng thăm tại Vịnh Cam Ranh.
Việc quay lại của Nga tại Việt Nam đương nhiên đã dấy lên hồi chuông báo động tại Lầu Năm Góc, với việc Tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương của Hoa Kỳ xác nhận rằng các máy bay ném bom chiến lược của Nga đang lai vãng trên căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ tại Guam đang được tiếp liệu từ Vịnh Cam Ranh.

Hôm 11 tháng Ba Washington đã gửi thư đến Hà Nội, yêu cầu chính quyền Việt Nam ngưng hỗ trợ các chuyến bay ném bom của Nga trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Thái độ của Việt Nam là giữ im lặng ngoài mặt. Theo Phuong Nguyen thuộc Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Washington thì,
“Theo quan điểm của nhiều quan chức Việt Nam, những người từng chiến đấu chống lại Hoa Kỳ trong thời chiến, Moscow đã giúp đào tạo nhiều thế hệ lãnh đạo Việt Nam và đã ủng hộ Hà Nội trong những thập niên nó bị thế giới cô lập.”
Nguyen nói thêm:
“Có vài điều đối với Việt Nam còn quan trọng hơn cả chính sách đối ngoại độc lập. Với lịch sử đầy phức tạp của Việt Nam, giới lãnh đạo không muốn quốc gia họ một lần nữa lại bị kẹt trong cuộc đấu đá giữa các cường quốc. Bất cứ điều gì mang vẻ Hoa Kỳ can thiệp vào quan hệ giữa Việt Nam với Nga cũng làm tăng nỗi e ngại này một cách không cần thiết.”
Mặc dù người Việt xem Hoa Kỳ ngày càng là một đối tác quan trọng tại Đông nam Á, nhưng Nga vẫn là nước đứng đầu danh sách. Theo một thoả thuận được ký kết vào tháng Mười một 2014, các tàu chiến Nga muốn cập cảng nước sâu Cam Ranh chỉ phải thông báo với chính quyền Việt Nam trước khi cập bến, trong khi tất cả hải quân các nước khác bị giới hạn mỗi năm chỉ có một chuyến tàu viếng thăm các cảng Việt Nam.
Tạo sao Việt Nam lại quan trọng
Nằm tại ngưỡng cửa của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Việt Nam có vai trò trọng yếu đối với Nga. Việc thiết lập lâu dài các cơ sở không và hải quân tại Việt Nam giúp Hạm đội Thái Bình Dương của Nga giải quyết được khó khăn của việc phải đi qua những eo biển nhỏ hẹp trên biển Nhật Bản để vào được khu vực Thái Bình Dương.
Đúng ra, sự hiện diện của Nga hiện tại là quá nhỏ so với hoả lực của họ trong giai đoạn 1980s, khi hạm đội Thái Bình Dương của Moscow có đến 826 tàu, bao gồm 133 tàu ngầm, 190 máy bay ném bom hải quân và 150 máy bay chống tàu ngầm. Ngay cả vào thời ấy, việc tăng cường vũ trang của Moscow cũng không xem là hung hăng mấy. Theo Alvin H. Bernstein tại Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Hoa Kỳ, nó “khó có một mục đích xâm hấn khu vực rõ rệt vì điều này không là đặc tính của một cường quốc” vốn tự xem mình là “cẩn trọng và không đối đầu”.
Ba thập niên sau, Moscow dưới quyền của Tổng thống Vladimir Putin một lần nữa đang tìm cách tăng cường vai trò của mình như là một cường quốc của châu Á lẫn thế giới, và như Bernstein đã lưu ý, quốc gia này muốn được “chuẩn bị cho mọi hoàn cảnh và cơ hội.”
Nó cũng là một phần của chính sách Hướng Đông của Nga. Trên thực tế, rất lâu trước khi Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama thông báo chính sách xoay trục sang châu Á, Nga đã xoay trục sang hướng Đông, tạo ra những xâm nhập vào những quốc gia thân Mỹ trước đây như Indonesia và Malaysia.
Tuy nhiên, chỉ tại Việt Nam thì bộ máy đối ngoại của Nga mới thực sự tăng tốc. Nhưng trước tiên, hãy nhìn lại quá khứ một tí.
Việt Nam là đất nước nhỏ bé với một quân đội có sức mạnh vượt bực. Với những ai có trí nhớ kém, tưởng cũng nên nhắc lại rằng quốc gia Đông Nam Á này đã tạo ra những chiến thắng vang dội đối với Pháp và Mỹ qua hai cuộc chiến liên tục. Với lòng dũng cảm thần kỳ, chiến thuật giao tranh thông minh và tinh thần không bao giờ khuất phục là những yếu tố quyết định trong những chiến thắng ấy, nhưng yếu tố then chốt vẫn là Việt Nam đã có những người bạn hùng mạnh.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, Nga đã đóng một vai trò trọng yếu đối với nền quốc phòng của Việt Nam, cung cấp cho họ một lượng vũ khí khổng lồ. Trong thời kỳ chiến tranh dài 21 năm trợ giúp của Nga trị giá 2 triệu USD mỗi ngày. Để đáp lại, Việt Nam đã cho Nga sử dụng miễn phí căn cứ Vịnh Cam Ranh. Theo điều khoản của thoả thuận này, Nga đã đặt các chiến đấu cơ MiG-23, máy bay tiếp liệu Tu-16, máy bay ném bom tầm xa Tu-95 và máy bay thám thính hàng hải Tu-142 tại căn cứ này.
Cam Ranh đã trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Moscow để triển khai tiên phong bên ngoài châu Âu. Khoảng 20 tàu chiến đã thả neo hàng ngày tại căn cứ, cùng với sáu tàu ngầm nguyên tử tấn công. Căn cứ này đóng một vai trò quan trọng để hỗ trợ Nga trong việc đối đầu với lực lượng do Mỹ dẫn đầu tại châu Á và Thái Bình Dương trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ví dụ như khi Hạm đội Bảy của Hoa Kỳ tiến về Vịnh Bengal để gây áp lực với Ấn Độ trong cuộc chiến tranh Ấn Độ – Pakistan vào năm 1971, Hạm đội Thái Bình Dương của Nga đã có thể nhanh chóng điều động các tàu ngầm trang bị vũ khí hạt nhân và các tàu chiến đến để bảo vệ Ấn Độ.
Mặc dù Vịnh Cam Ranh mang tầm quan trọng địa chính trị đối với Moscow và là một địa điểm thâu thập tin tức tình báo có giá trị, sự hiện diện của người Nga thực ra đã biến mất sau khi Liên Xô sụp đổ. Các căn cứ quân sự tầm cỡ Cam Ranh tốn kém một lượng tiền kinh khủng để hoạt động và Nga không còn tiền để đốt. Đến năm 2001, thậm chí các trạm thâu thập tín hiệu cũng bị bỏ trống.
Dùng Klub để đối đầu Trung Quốc
Mặc dù sự hiện diện quân sự của Nga giảm thiểu, Nga và Việt Nam vẫn tiếp tục giữ quan hệ chặt chẽ. Trong bối cảnh của cuộc tranh chấp với âm lượng cao của Việt Nam với Trung Quốc về Quần đảo Trường Sa nhiều dầu mỏ, Hà Nội đã săn lùng những vũ khí hoả lực cao. Lực lượng không quân huyền thoại của Việt Nam vừa mua từ Nga 24 chiếc SU-30, và đến cuối năm 2015, sẽ triển khai 36 chiếc Sukhoi, trở thành quốc gia đứng thứ ba có số lượng cao nhất những chiếc phản lực siêu cơ động tối tân này.
Tuy nhiên, chính lực lượng Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam mới thực sự tăng cường cơ bắp. Trong năm 2009, Việt Nam đã ký kết hợp đồng với Nga trị giá 3,2 tỉ USD bao gồm sáu tàu ngầm hạng Kilo và xây dựng một cơ sở tàu ngầm tại Vịnh Cam Ranh.
Một thương vụ tầm cỡ nữa là việc mua 50 tên lửa đạn đạo siêu thanh Klub để trang bị cho các tàu Kilo, biến Việt Nam thành quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á trang bị tên lửa đối đất cho hạm đội tàu ngầm của mình.
Cân nặng đến hai tấn, tên lửa Klub có đầu đạn nặng 200 kg. Phiên bản chống tàu chiến có tầm bắn xa 300 km, nhưng tăng tốc cao đến 3.000 km/giờ trong khoảng một phút cuối cùng của đường bay. Theo mạng Strategy Page, phiên bản tấn công đất liền đã bỏ đi đặc tính tăng tốc ở chặng cuối đường bay và điều này khiến có thể tăng trọng lượng đầu đạn lên hơn 400 kg.
“Điều khiến cho Klub đặc biệt nguy hiểm khi tấn công tàu thuỷ là vào chặng cuối đường bay của mình, vốn bắt đầu khi quả tên lửa cách mục tiêu khoảng 15 km, nó sẽ tăng tốc,” mạng Strategy Page cho biết. “Cho đến lúc ấy, quả tên lửa đang bay ở độ cao khoảng 100 feet (30 mét). Việc này khiến cho tên lửa khó bị phát giác. Điều này cộng thêm khả năng tăng tốc ở chặng cuối đường bay, có nghĩa là nó chỉ cần 20 giây để bay hết 15 km cuối. Điều này tạo thêm khó khăn để các loại vũ khí chống tên lửa bắn rơi được nó.”
Những tàu ngầm do Nga đóng với tên lửa Klub mạnh mẽ đang được xem là sẽ đóng một vai trò quan trọng trong bất cứ cuộc tranh chấp nào trên biển Đông. Theo một nhà phân tích, những quả tên lửa đạn đạo đối đất đã đánh dấu “một chuyển biến to lớn” trong việc tăng cường sức mạnh của hải quân Việt Nam. “Họ đã tự tạo cho mình một dụng cụ đối đầu mạnh mẽ, khiến cho tính toán chiến lược của Trung Quốc bị phức tạp thêm.”
Người ta cho rằng các tàu chiến của Trung Quốc không có hệ thống phòng vệ hiệu quả đối với loại tên lửa như Klub, vì thế tại sao họ đã nổi cơn lôi đình về việc Nga bán chúng cho Việt Nam.
Trong khi những chiếc Kilo đang được đóng, Nga và Ấn Độ hiện đang chịu trách nhiệm đào tạo các sĩ quan Việt Nam để điều khiển các chiếc tàu ngầm này.
Mua thêm hoả lực từ Nga
Thêm vào đấy, trong năm 2011, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mua của Nga hai tàu khu trục tàng hình hạng Gepard có khả năng điều khiển tên lửa trị giá 300 triệu USD, với dự định tăng cường hạm đội Gepard lên sáu chiếc vào năm 2017. Những tàu chiến đa năng này được trang bị để tham gia tấn công trên mặt nước, chống tàu ngầm và phòng không.
Quân đội Nhân dân Việt Nam còn mua thêm bốn tuần duyên cao tốc hạng Svetlyak với tên lửa chống tàu chiến; 12 tàu khu trục và hộ tống có nguồn gốc từ Nga; và hai tàu tấn công cao tốc trang bị tên lửa hạng Molniya dưới sự trợ giúp của Nga, cùng thêm bốn chiếc nữa vào năm 2016.
Việt Nam cũng mua những thiết bị radar tối tân; 40 tên lửa Yakhont và 400 tên lửa chống tàu chiến Uran Kh-35; tên lửa đạn đạo chống tàu chiến Kh-59MK; tên lửa không đối không tầm ngắn R-73 (AA-11 Archer); 200 tên lửa đất đối không SA-19 Grison; hai dàn hệ thống tên lửa đất đối không huyền thoại S-300; các hệ thống định vị vô tuyến thụ động VERA; và hai dàn tên lửa bảo vệ bờ biển K-300P Bastion.
Khía cạnh kinh tế
Theo một tài liệu nghiên cứu của các học giả tại Bồ Đào Nha: Tran Thi Phuc, Alena Vysotskaya G. Vieira và Laura C. Ferreira-Pereira,
“Việc mua sắm các thiết bị quân sự là tối trọng, không chỉ đơn thuần vì tính toán quốc phòng và chiến lược, mà còn vì vai trò quan trọng của nó trong việc bảo vệ những quyền lợi kinh tế cũng như mối an ninh trong việc thăm dò các mỏ dầu trên biển Đông. Khía cạnh thứ hai này đặc biệt quan trọng vì vai trò mà Nga đang đóng ở đây. Thật thế, đa số các dự án khai thác này được thực hiện qua hợp tác giữa Việt Nam và Nga.”
Trong khi quốc phòng được truyền thông lưu ý nhiều hơn, thực ra năng lượng mới là lĩnh vực đơn lẻ lớn nhất trong mối hợp tác giữa Moscow và Hà Nội. Công ty liên doanh Nga-Việt Vietsovpetro đã tạo ra lới nhuận lớn cho cả hai quốc gia. Công ty này đã sản xuất hơn 185 triệu tấn dầu thô và hơn 21 tỉ mét khối khí đốt từ các mỏ dầu trên biển Đông.
Nga cũng đã có những đầu tư đáng kể trong các ngành công nghiệp nặng và nhẹ, giao thông vận tải, bưu điện, nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá của Việt Nam. Các dự án này đã dẫn đến sản phẩm phụ khác – ấn tượng bởi những lợi nhuận tạo ra bởi các tập đoàn Nga, một số công ty khác như Mobil, BP và TOTAL đã đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam.
Chiến lược hướng Nga của Việt Nam được kết nối chặt chẽ với việc hợp tác kinh tế trong thăm dò dầu, vốn mang lại lợi ích kinh tế đáng kể cho cả hai bên. Quan hệ quốc phòng vững mạnh giữa hai nước đã cho phép Việt Nam mua sắm những thiết bị quân sự hiện đại, giúp quốc gia này có khả năng xúc tiến những dự án thăm dò dầu khí chung bất chấp sự phản đối ngày càng tăng của Trung Quốc đối với các dự án này.
Đồng thời, Nga đang quay lại để tái xác định vai cường quốc của mình trong quá khứ. Nó tạo cho Moscow vô số cơ hội nhằm bảo đảm ảnh hưởng chính trị và kinh tế của mình với các cường quốc mới nổi khác nhau tại trọng tâm của khu vực năng động nhất trên hành tinh.
Nhưng, đừng đổ lỗi cho cho Việt Nam việc ấy vì đất nước này không phải là một ngoại lệ mà là một xác nhận đến qui tắc hiện hành tại châu Á. Như giáo sư Anis Bajrektarevic khẳng định trong tác phẩm nổi bật của ông ”Không có thế kỷ châu Á”:
“Những điều trở nên rõ ràng, gần như ngay từ cái nhìn đầu tiên, là sự vắng mặt của bất kỳ cấu trúc an ninh đa phương toàn châu Á. Cấu trúc an ninh hiện tại chỉ mang tính song phương và chủ yếu là bất đối xứng. Chúng bao gồm từ các hiệp ước an ninh không xâm lược được xác định rõ ràng và bền vững, thông qua thỏa thuận không chính thức, cho đến những hiệp định hợp tác dành riêng cho các vấn đề cụ thể. Sự hiện diện của các hệ thống khu vực đa phương chỉ giới hạn ở một vài nơi trên lục địa lớn nhất hành tinh này, và tuy thế, chúng hiếm khi được ủy quyền với các vấn đề an ninh (chính trị-quân sự) trong phạm vị hoạt động của chúng. Một tính năng đáng chú ý nữa là hầu hết các cơ cấu song phương hiện tại bao gồm một bên là một quốc gia châu Á, và bên kia là một quốc gia bảo trợ trong hoặc ngoài châu Á, khiến chúng hầu như đúng theo định nghĩa của từ bất đối xứng”.

Không có nhận xét nào: