Pages

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2011

Việt Nam, bị tàn phá bởi cuộc khủng hoảng kinh tế, đang chuẩn bị những cải cách mới

Trần Lệ Thủy John Ruwitch

Lê Quốc Tuấn. X-Cafevn chuyển ngữ

Tin viết từ Hà Nội (Reuters) – Sau bốn năm bất ổn kinh tế, Việt Nam đang bắt tay vào một số cải cách mà một số người tin có thể là quan trọng nhất kể từ khi các bước khởi đầu vào năm 1986, từng chấm dứt loại kế hoạch ngột ngạt và, cuối cùng đã biến quốc gia bị chiến tranh tàn phá này thành một con hổ.
Tuy nhiên, có sự hoài nghi rằng các nhà hoạch định chính sách có thể chống lại sự việc thay đổi lớn từ những công ty quốc doanh và các nhóm lợi quyền khác, bao gồm các tập đoàn tư nhân, đã có ảnh hưởng và gia tăng đáng kể.
Nhiều tháng trời bàn thảo căng thẳng đã đưa đến một mối đồng thuận rằng Việt Nam, sau khi bị tàn phá bởi cuộc lạm phát tồi tệ nhất của châu Á và các tai họa khác, cần phải thay đổi chiến thuật, như 25 năm trước đã từng có một chính sách “Đổi Mới” cất cánh.
“Bây giờ là nghiêm túc, không chỉ là chuyện nói bàn nữa”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đã nói với Reuters. “Chúng tôi đã trải qua các phân tích cẩn thận, đau đớn để nhìn thấy thiếu sót và các khu vực cần cải thiện ở đâu”.

Tuy nhiên khó biết chắc rằng chính phủ có sẽ theo đuổi những cải cách đủ rộng rãi và sâu sắc để sửa chữa các ngân hàng quốc doanh ngập nợ và kiểm soát các doanh nghiệp quốc doanh không hiệu quả như Việt Nam Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Vinashin, từng không trả được nợ một cách xấu hổ hồi năm ngoái.
“Một lần nữa, kinh tế Việt Nam lại đứng ở ngã ba đường”, ông Lê Đăng Doanh, một kinh tế gia có đầu óc cải cách, nhà tư vấn cho giới lãnh đạo hiện tại và trước đây cho biết.

Trời đêm Hà Nội nhìn từ một cao ốc, tháng 11.2011
Và lần này, theo quan điểm của Doanh, di chuyển dứt khoát đến con đường cải cách là “khó khăn hơn bởi vì việc ấy động chạm đến các nhóm lợi quyền mạnh mẽ hoạt động đằng sau hậu trường”.
Thay đổi mô hình tăng trưởng
Khi nền kinh tế hấp hối tại ngã ba đường vào giữa những năm 1980, công cuộc tự do hóa đã cởi trói cho các cá nhân và ngành công nghiệp Việt Nam trở thành một ngôi sao đang lên. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ngôi sao ấy đã lụi tàn, và đất nước đã chuyển từ một trong những nền kinh tế hứa hẹn nhất của châu Á trở thành một trong những nền kinh tế bất ổn nhất.
Chính phủ hy vọng sẽ thay đổi được mô hình tăng trưởng kinh tế của mình ra khỏi sự phụ thuộc vào nguồn vốn và lao động rẻ, đã chỉ ra ba khu vực phải tập trung – các ngân hàng, chi tiêu công và các doanh nghiệp quốc doanh – nhưng không hề dự kiến là sẽ cho ra mắt một loại cải cách độc đáo “cực lớn”.
Những người ủng hộ thay đổi lớn hy vọng chính phủ có thể mở ra một loại cải cách lớn như một tiến trình Đổi mới trước đây; Đổi mới đã được đưa ra vào năm 1986 nhưng đã không tăng tốc cho đến đầu những năm 1990, và theo thời gian Việt Nam đã chuyển đổi từ một trường hợp tàn phế sau chiến tranh thành một cường quốc khu vực vừa chớm nở.
Có những người lạc quan tin rằng Việt Nam sẽ thay đổi quan trọng về nội dung để loại bỏ những gì mà Ngân hàng Thế giới gọi là sự bất ổn kinh tế “định kỳ và ngày càng nghiêm trọng” của Việt Nam.
Deepak Mishra, kinh tế gia của Ngân hàng Thế giới kinh tế, người từng mô tả Việt Nam như trong một bãi “hoang địa”, đã được khích lệ bởi việc nhiều quan chức đang nói về sự thay đổi.
“Không một ai từng nhìn thấy một tình trạng như thế này trong thời gian qua”, Mishra nói. “Linh cảm của tôi là chúng ta sẽ không nhìn thấy sự rõ rệt lớn lao về hành động tức thì cho tiến trình tương lai, nhưng sau 5 hoặc 10 năm khi nhìn lại chúng ta có thể nói, đúng thế, đã có một cuộc thay đổi thực sự bắt đầu vào năm 2011″.
Các nhà kinh tế đồng thuận về những gì mà nhà nước nên làm, Phạm Chi Lan, một nhà kinh tế đáng kính, người đã được các nhà lãnh đạo hàng đầu vời đến trong những tuần gần đây để thảo luận về các tai họa của đất nước.
Nhưng rồi vẫn có những câu hỏi lớn: các lãnh đạo sẽ đưa ra một chương trình nghị sự về các thay đổi cơ cấu lớn đến mức nào ?
“Nếu giới lãnh đạo chấp nhận điều này”, Lan cho biết, “họ sẽ đưa đất nước này vào một lần Đổi mới lần thứ hai”.
Cải cách hoặc Tụt hậu
Có rất ít tranh cãi về những thử thách.
Lạm phát đã tăng trên 20% hai lần trong ba năm qua trong khi dự trữ ngoại hối sụt giảm, và tiền đồng Việt Nam đã bị mất hơn 20% so với đồng USD. Nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong khi tín dụng so với GDP đã tăng đến 125%.
Cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh, cho đến nay đã giảm 22% trong năm nay so với cùng thời gian trong năm 2010. Năm ngoái, cả ba cơ quan xếp hạng lớn – Fitch, Moody và Standard & Poor đã hạ cấp hạng tín dụng của đất nước gần 90 triệu người này.
Các chuyên gia cho rằng gốc rễ tình thế bùng nổ tiến thoái lưỡng nan của Việt nam nằm trong các đầu tư quá mức của các những công ty quốc doanh không hiệu quả, đã thu hút vốn liếng và chuyển đổi quá đáng từ năng lực chủ yếu của họ vào các lĩnh vực như bất động sản và cổ phiếu – vốn cả hai đều đã bị chập choạng.
Sự tăng trưởng kể từ khi Đổi mới từng có căn bản trên việc đầu tư vốn và lao động ngày càng tăng, nhưng điều đó ngày càng ít có khả năng léo lái nền kinh tế, Nguyễn Đình Cung, Phó Chủ tịch cơ quan tư vấn hàng đầu của chính phủ, đã nói trong một báo cáo vào tháng Chín, vốn được coi nền tảng cho các cuộc thảo luận về của cải cách của chính phủ.
“Nền kinh tế của chúng ta là không còn có thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao như những năm trước”, Cung – thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế (CIEM) đã viết.
Trong tháng Bảy, một đợt cải tổ nhân sự lãnh đạo năm năm một lần dường như đã dọn đường cho cuộc cải cách.
“Chúng ta phải cải cách,” ông Cao Sĩ Kiêm, thành viên của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và một cựu thống đốc ngân hàng trung ương đã tuyên bố. “Nếu không, kinh tế sẽ nguy hiểm, bị mắc kẹt phía sau và đức tin của người dân sẽ sút giảm”.
Khôi phục Niềm tin của Dân chúng
Kiêm cho biết Bộ Chính trị, nhóm 14 người ở đỉnh cao quyền lực chính trị, đã kết luận rằng cải cách là cần thiết để khôi phục lại niềm tin của người dân. “Lãnh đạo Đảng Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra tín hiệu mạnh nhất và công khai nhất, đọc lên lời kinh cầu về những khó khăn để hỗ trợ cải cách trong một bài phát biểu ngày 10 tháng 10.
Trọng đổ lỗi cho điều kiện toàn cầu cũng như “các thiếu sót trong nền kinh tế, một mô hình tăng trưởng không hiệu quả và một cơ chế kinh tế lạc hậu”.
“Chúng ta phải tái cơ cấu nền kinh tế cùng đổi mới mô hình tăng trưởng”, ông nói, đưa ra ba ưu tiên: đầu tư công, tài chính và các doanh nghiệp quốc doanh.
Trần Đình Thiên, Giám đốc Viện Nghiên cứu Kinh tế Việt Nam tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam do nhà nước quản lý, nói rằng bài phát biểu đã lên đến “một thông báo hành động, rằng đảng đã đồng ý về tái cơ cấu nền kinh tế”.
Việc bàn bạc về cải cách đã tiến triển kể từ mùa hè. Một số đề nghị hiện hữu có tiềm năng thay đổi căn bản mối quan hệ giữa chính phủ với kinh doanh và sẽ làm thay đổi hình dáng nền kinh tế.
Các ban bộ Chính phủ đã được lệnh phải tái cơ cấu lại bản thân ra sao, và doanh nghiệp nhà nước đã được lệnh thu nhỏ cổ phần trong các doanh nghiệp không chuyên môn của họ.
Trong tháng Chín, Bộ Tài chính đã đề xuất rằng chính phủ bắt buộc các doanh nghiệp quốc doanh phải hoàn lại 50% lợi nhuận của họ với nhà nước và cắt giảm từ 10 đến 30% việc đầu tư vào các khu vực không chuyên môn bao gồm bảo hiểm, ngân hàng và chứng khoán.
Quản trị doanh nghiệp
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo một kế hoạch để tách quyền sở hữu và quản lý tại những doanh nghiệp quốc doanh lớn nhất, chẳng hạn như nhóm Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Lan, nhà kinh tế được mời nói chuyện với giới lãnh đạo, cho biết “một kế hoạch mạnh mẽ, trong đó các công ty quốc doanh phải tuân theo những tiêu chuẩn quản trị doanh nghiệp OCED. Kế hoạch này cũng dựa khuôn theo mô hình Trung Quốc trong việc có tiêu chí rõ ràng về năng suất và tiến bộ công nghệ, thay vì về đầu tư và doanh thu”.
Mặc dù về thời điểm là chưa rõ ràng vì hoàn cảnh khó khăn của thị trường, các quan chức đã báo hiệu rằng các ống dẫn của những hiến dâng ban đầu của công chúng từng bị nghẽn tắc lâu nay sẽ được khai thông, và khối doanh nghiệp quốc doanh lớn không hiệu quả trước đây sẽ được bán bỏ.
Chính phủ cũng đang xem xét việc bán bỏ các doanh nghiệp quốc doanh trong các ngành công nghiệp nơi có các doanh nghiệp tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tốt, bao gồm hải sản, dệt may và cà phê trong khi vẫn giữ lại quyền sở hữu về vận chuyển dầu và khí, và điện lực.
Ngày 24 tháng 10, Thủ tướng đã ra lệnh tạo nê một ủy ban tư vấn về Chính sách tiền tệ và tài chính.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang làm việc để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng bằng cách tổ chức hợp nhất của khu vực đông đúc này. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước soạn thảo một kế hoạch tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại.
Lề mề chập chạp
Các sáng kiến có đơm hoa kết trái hay không, còn tùy thuộc vào việc giới lãnh đạo thống nhất ra sao và các nhóm lợi quyền như các doanh nghiệp quốc doanh lề mề đến đâu.
Trọng, nhà lãnh đạo đảng, rõ ràng là người ủng hộ việc phải hành động. Các nguồn tin cho biết Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, một nhận vật nặng ký của đảng, cũng đã từng nói đến một chương trình nghị sự cải cách mới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gặp các nhà kinh tế trong nước và quốc tế. Những người tham dự nói rằng các cuộc họp đã từng là thẳng thắn một cách khác thường và Dũng thể hiện sự hiểu biết về những khó khăn.
Nguồn tin cho biết một trong nhân vật cố vấn thân cận Dũng hiện nay là ông Trương Đình Tuyển, một cựu Bộ trưởng thương mại có đầu óc cải cách, biệt danh là Ông WTO vì vai trò của đàm phán của mình cho Việt Nam vào đưọc Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2006.
Tuy nhiên, một số nhà phê bình vẫn không tin rằng vào sức thuyết phục của Dũng, người mà chính sách quản lý kinh tế trong nhiệm kỳ năm năm đầu tiên của ông đã tạo nên các khó khăn hóc búa hiện nay.
Các nhà phân tích bao gồm cả Carl Thatcher, nhà quan sát Việt Nam của Đại học New South Wales nói rằng Dũng đã nổi lên từ những cải tổ như một nhân vật chính trị có ảnh hưởng nhất.
Doanh, nhà kinh tế từng đưa ra lời cố vấn, cho biết kế hoạch cải cách mà Trọng, nhà lãnh đạo đảng vạch ra đã có một “cái nhìn nghiêm túc và thẳng thắn hơn” vào những thiếu sót so với một báo cáo của chính phủ đến Uỷ ban Trung ương Đảng – ám chỉ một mối bất đồng có thể có giữa đảng và chính phủ.
Một bản Báo cáo “Rất mù mờ”
Ông Doanh cho biết, bản báo cáo của chính phủ “rất mù mờ” về cải cách Doanh Nghiệp Quốc Doanh, một thành phần quan trọng của bất kỳ chương trình cải cách thực sự nào.
Khu vực nhà nước đang thu hẹp lại và hiện chiếm khoảng 40% nền kinh tế, nhưng lại chiếm một phần quá lớn của chiếc bánh đầu tư.
Như một chỉ hướng cho thấy mọi điều có thể dẫn về đâu, bản báo cáo của Cung của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế đề xuất việc cắt giảm hoàn toàn các doanh nghiệp nhà nước khỏi những đặc quyền, buộc họ phải sống hoặc chết bởi chính thị trường.
Cung đã viết: “Nếu gây thiệt hại và không trả được nợ, họ phải bị phá sản như các doanh nghiệp khác, Nhà nước cần phải không cung cấp các đảm bảo hoặc thanh toán nợ”.
Nhưng nói thì dễ, Doanh nói. Ông và các nhà phân tích khác lo lắng rằng hoàn cảnh hiện tại có thể chưa đủ “đau đớn”, để các nhà lãnh đạo phải thực hiện những biện pháp thật sự táo bạo.
Đôi khi ta nghe thấy những lời hùng hồn nhưng cái ta cần là hành động, chứ không phải lời hoa mỹ ” nhà cựu quan chức cho biết.
Những lợi quyền cố thủ có thể đã làm trì trệ mọi thứ.
Cuối tháng Mười vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết họ vẫn chưa hoàn thành được đề nghị cải cách doanh nghiệp nhà nước vì đã không thể có được dữ liệu từ các công ty.
Các phương tiện truyền thông nhà nước tường thuật rằng, các doanh nghiệp quốc doanh cũng chống lại kế hoạch của Bộ Tài chính nhằm hạn chế các đầu tư của họ trong các ngân hàng, công ty bảo hiểm và chứng khoán.
“Khó khăn chính là, những cải cách ảnh hưởng trực tiếp đến lợi quyền của một số lực lượng mà cơ chế quản lý lệ thuộc vào”, ông Thiên của Viện Nghiên cứu Kinh tế Việt Nam, một Hội đồng tư vấn cho chính phủ về chính sách tài chính nhận xét. “Nhưng việc không tái cơ cấu nền kinh tế không phải là một lựa chọn nữa”.
(Richard Borsuk hiệu đính)
Nguồn: Reuters

Không có nhận xét nào: