Vietcombank tại Hà Nội
Vũ Hoàng, phóng viên RFA
Trong chiều hướng cải tổ cấu trúc kinh tế hiện nay của Việt Nam, một vấn đề đã được đặt ra. Đó là vai trò của doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu tư nhân hoá.
Nhưng ngay trong nỗ lực tư nhân hoá mà Việt Nam gọi là “cổ phần hóa”, người ta còn thấy ra một tắc nghẽn khác, đó là đất đai và rất nhiều vấn đề pháp lý ở bên trong. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về những trở ngại muôn mặt này qua phần trao đổi sau đây cùng chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Cổ phần hóa doanh nghiệp
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Trên diễn đàn chuyên đề này, ông đã nhiều lần nhắc tới sức đóng góp rất kém mà vị trí lại rất cao của các doanh nghiệp nhà nước tại cả Trung Quốc và Việt Nam. Khi nói đến yêu cầu cải tổ cấu trúc kinh tế, ông cũng nói đến việc thay đổi tư duy ở trên rồi mới đến cải cách doanh nghiệp ở dưới, với hàm ý là chấn chỉnh doanh nghiệp nhà nước và với nội dung là đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp này. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu về những bước cụ thể cho tiến trình đó. Ông nghĩ sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng rằng người ta phải thay đổi nhận thức và chính sách liên hệ đến hai lý luận cơ bản là thứ nhất, “định hướng xã hội chủ nghĩa” và thứ hai là vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Từ đã lâu, chúng ta có nhiều dịp phân tích sự thể này và ngày càng có nhiều người đồng ý như vậy ở trong nước. Chính quyền Việt Nam cũng đã đề cập tới yêu cầu tái cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước là một trong ba vế của việc cải cách. Tuy nhiên, khi đi vào bước cụ thể là phải tiếp tục cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thì người ta đụng vào nhiều trở ngại khác mà nếu có thể thì kỳ này mình sẽ phải nêu ra.
Vũ Hoàng: Nếu chúng tôi hiểu không lầm, trước đây, ông từng là chuyên gia tư vấn về cải cách doanh nghiệp và đã thực hiện việc đó tại nhiều quốc gia cho các tổ chức quốc tế. Khi đi vào việc cụ thể của cải cách hay cổ phần hóa, người ta có thể gặp những trở ngại gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, xin hãy nói về định nghĩa và mục tiêu để thống nhất về nội dung bàn luận.
Thế giới thường dùng khái niệm “tư nhân hoá”, Việt Nam thì lại gọi chệch đi là “cổ phần hóa”. Nội một chi tiết ấy cũng có thấy khác biệt về tư duy nên chúng ta mới nói về cải tổ tư duy. Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là cải cách cơ sở pháp lý để tư nhân có thể tham gia vào việc hùn vốn. Nghĩa là làm chủ một phần hay toàn phần của các phương tiện sản xuất, và tham dự vào tiến trình quản lý với những kiến thức hiện đại hơn về tổ chức và quản trị.
Khi dùng chữ “cổ phần hóa”, chính quyền Việt Nam chỉ chú ý tới một trong nhiều khâu của việc cải cách, có lẽ vì cố tình tránh chữ “tư nhân hóa” của thế giới.Mục tiêu ở đây là vừa cải tiến năng suất của các cơ sở này, đồng thời thu về tài nguyên do tư nhân góp vốn hầu nhà nước có thêm phương tiện giải quyết nhiều nhu cầu khác. Kinh tế học gọi quyết định này là “giải tư”, nhà nước tháo gỡ việc đầu tư tiền bạc vào những ngành sản xuất mà mình vẫn đảm nhiệm qua các doanh nghiệp nhà nước.
Ông Nguyễn-Xuân Nghĩa
Trong tiến trình tư nhân hóa, có một bước pháp lý và kế toán là “cổ phần hóa”, là xác minh quy chế pháp lý của doanh nghiệp nhà nước, chấn chỉnh lại hồ sơ tài chính hầu xác định trị giá của doanh nghiệp qua các cổ phần sẽ nhượng lại cho tư nhân trên thị trường tài chính. Khi dùng chữ “cổ phần hóa”, chính quyền Việt Nam chỉ chú ý tới một trong nhiều khâu của việc cải cách, có lẽ vì cố tình tránh chữ “tư nhân hóa” của thế giới. Sự tránh né trong lý luận và tư tưởng này khiến chúng ta phải nói đến việc thay đổi từ cái đầu.
Vũ Hoàng: Thưa ông, thế thì khi tư nhân hoá các doanh nghiệp, người ta phải làm những việc gì trong thực tế?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin trình bày rất khái quát như sau. Doanh nghiệp là một cơ sở sản xuất có mục tiêu kiếm lời. Cơ sở vận dụng một số phương tiện mà ta gọi là “nhập lượng”, được đưa vào sản xuất để tạo ra một “xuất lượng” có giá trị cao hơn. Sai biệt giữa xuất lượng ở đầu ra và nhập lượng ở đầu vào cho ta kết quả kinh doanh là lời hay lỗ. Doanh nghiệp nhà nước là cơ sở mà các phương tiện sử dụng thuộc quyền sở hữu và quán lý của nhà nước. Khi cải cách doanh nghiệp, người ta trước tiên giải quyết vấn đề pháp lý là nhà nước nào, là bộ phận nào của nhà nước có trách nhiệm sử dụng và kiểm soát các phương tiện đó?
Nhưng bước quan trọng hơn thế vẫn là kiểm tra tài chính. Đó là xem các phương tiện này là những gì, bao nhiêu, xuất xứ từ đâu, sử dụng ra sao trong tiến trình sản xuất? Khi ấy, ta có một định nghĩa kế toán của doanh nghiệp. Cơ sở sản xuất này vận trù một số tài sản, trong đó có loại tài sản mà doanh nghiệp là chủ, gọi là “tích sản” và những tài sản mà doanh nghiệp vay mượn ở ngoài, gọi là “tiêu sản” – nôm na là tiền nợ. Khi khấu trừ phần tiêu sản trong tích sản, ta có tài sản thuần của doanh nghiệp – nôm na là phần vốn riêng. Khi dự toán về xuất lượng và mức lời trong tương lai, người ta có thể biết được khả năng sinh lời của khoản vốn này, từ đó định ra là cổ phần của doanh nghiệp đáng giá là bao nhiêu hầu có thể rao bán cho tư nhân mua lại.
Tiến trình tư nhân hóa doanh nghiệp vì vậy đòi hỏi việc xác minh tài sản, phần vốn và nợ, và dự toán về giá trị của phần vốn đó trong tương lai. Và đấy mới là ách tắc lớn nhất.
Trở ngại chuyện đất đai
Một người dân Văn Giang tại khu đất vừa bị cưỡng chế hôm 24/4/2012. Phía xa
là một phần khu đô thị Ecopark. Photo courtesy of chinhphu
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin lỗi là vẫn phải nói đến vài chi tiết chuyên môn.
Trong các tài sản do doanh nghiệp quản lý, ta có nhiều loại. Một cách đếm là phân biệt tài sản cố định với tài sản di động, xin gọi là “bất động sản” như đất đai, phòng ốc, hãng xưởng, thiết bị, v.v… và “động sản” là các phương tiện có thể dời đổi vị trí, kể cả tiền vay mượn ngắn hạn như vốn luân lưu chẳng hạn. Thế thì trong việc xác định trị giá của tài sản để từ đó tính ra triển vọng sinh lời hầu biết là nên rao bán cổ phần của xí nghiệp là bao nhiêu thì hợp lý, chúng ta gặp ngay một vấn đề không có giải pháp. Đó là đất đai. Sở dĩ như vậy là vì quy chế pháp lý của đất đai tại Việt Nam. Cải cách doanh nghiệp của Việt Nam bị ách tắc vì luật đất đai của xứ này.
Vũ Hoàng: Từ việc cải cách rồi định giá doanh nghiệp, ông xoáy vào một trở ngại là chuyện đất đai. Ông có thể giải thích sự việc này cho thính giả cùng hiểu chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Việt Nam có một cơ chế quái đản về quyền sở hữu, thể hiện rõ ràng nhất trong quyền sở hữu đất đai và đấy là chướng ngại cơ bản khiến xứ này không có tương lai.
Trước hết, cả thế giới đều tôn trọng quyền tư hữu, là quyền sở hữu của tư nhân trên một số tài sản, kể cả và nhất là đất đai. Điều 17 của “Hiến chương Liên hiệp quốc về Quyền làm người” có quy định việc đó. Hiếp pháp của hầu hết các quốc gia hoặc Hiến ước Âu châu cũng thế.
Trong quy phạm của quyền sở hữu tài sản, người ta bao gồm mà phân biệt ba loại quyền. Thứ nhất là quyền sử dụng và khai thác, gọi theo tiếng Latinh là “usus”; thứ hai là quyền kiếm lời và hưởng lợi nhờ tài sản đó, gọi là “fructus”; và thứ ba là quyền chuyển nhượng, tức là bán hay bỏ tài sản này, mà người ta gọi là “abusus”.
Khi quy định trong Hiến pháp, rằng “đất đai là quyền sở hữu của toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”, chính quyền Việt Nam thực tế giới hạn quyền tư hữu và dùng tư tưởng công hữu để công hữu hóa hay quốc hữu hoá tài sản của người dân. Một cách cụ thể thì người dân chỉ có hai quyền đầu tiên là khai thác và kiếm lời, “usus” và “fructus”, mà không có quyền chuyển nhượng là “abusus”. Cái quyền đó nằm trong tay nhà nước qua quy định là “do nhà nước thống nhất quản lý”. Sự thật thì nhà nước quản lý loại tài sản này theo định hướng của mình cho tay chân của mình và gây ra tình trạng cướp đất mà chẳng có bồi thường thoả đáng.
Việt Nam có một cơ chế quái đản về quyền sở hữu, thể hiện rõ ràng nhất trong quyền sở hữu đất đai và đấy là chướng ngại cơ bản khiến xứ này không có tương lai.Vũ Hoàng: Chúng tôi hiểu ra chuỗi lý luận của ông, nhưng vấn đề ấy nó liên hệ ra sao đến việc cải cách doanh nghiệp nhà nước?
Ông Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng trong các tài sản do doanh nghiệp nhà nước quản lý ta có lù lù một khối là đất đai.
Khi xưa, khoản tài sản này được thụ đắc hoặc thực tế là cướp của dân với giá quá rẻ vì bồi thường rất ít, sau đó được đưa vào kinh doanh và trao đổi với giá rất cao. Nhờ quy chế ưu đãi của mình, doanh nghiệp nhà nước còn có thể xắn đất thành từng mảng nhỏ, xây dựng thành cơ xưởng văn phòng và dùng tài sản đó làm vật thế chấp khi đi vay ngân hàng cho các dự án ma của họ.
Qua mỗi đợt trao đổi, vay mượn hay liên doanh như vậy – kể cả khi lập công ty cổ phần, công ty vệ tinh hay các cơ sở bình phong – đảng viên cán bộ kiếm tiền rất nhiều nhờ cái quyền chuyển nhượng gọi là “do nhà nước thống nhất quản lý”. Hậu quả chung cuộc sau một chuỗi kinh doanh mờ ám này là người ta khó xác minh được nguồn gốc và giá trị tài sản khi phải định giá cổ phần của các doanh nghiệp để có thể tư nhân hóa.
Nếu muốn tư nhân hoá các doanh nghiệp tài chính của nhà nước, như ngân hàng chẳng hạn, thì làm sao tính ra các loại tích sản và tiêu sản thực tế nếu bên trong lại là những khoản tín dụng cấp phát trên cơ sở của các bất động sản được đưa vào làm tài sản thế chấp? Chúng ta có một mớ bòng bong về quyền lợi chòng chéo trong một hệ thống luật lệ thiếu phân minh.
Phải cải tổ từ đầu
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng họp với UBND huyện Tiên Lãng về vụ Đoàn Văn Vươn.
Photo courtesy of eyedrd.org
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy, ngần ấy vụ khủng hoảng đang xảy ra, từ Tiên Lãng ở Hải Phòng đến Văn Giang của Hưng Yên đều xuất phát từ chuyện đất đai và 80% các vụ khiếu kiện ngày nay cũng liên quan đến đất đai. Việc cải tổ cấu trúc tài chính và ngân hàng cũng liên quan tới đất đai. Nhìn rộng ra ngoài, toàn bộ tiến trình công nghiệp hoá, đô thị hoá và hiện đại hóa cũng đất nước này cũng liên quan đến đất đai và quyền sử dụng đất.
Nếu muốn phát triển quốc gia và ngay trước mắt, canh tân lại hạ tầng cơ sở sản xuất, thì ai ai ở trên cũng có thể nghĩ đến việc sửa Luật Đất đai và giảm giá đất. Nhưng người ta lập tức đụng vào bức vách quyền lợi của các đảng viên cán bộ đã được hưởng mà chẳng phải đóng góp gì nhiều nhờ con dấu hay tấm sổ đỏ của họ.
Chính là vì vậy, chính quyền Việt Nam chưa dám khai thông ách tắc với việc cải sửa lại bộ Luật Đất đai, vốn dĩ cũng là một yêu cầu ưu tiên của tái cơ cấu kinh tế. Đằng sau ách tắc đa diện ấy chính là việc quyền tư hữu của người dân không được chính quyền công nhận.
Mỉa mai hơn vậy, chế độ công hữu hình thức này đang sản sinh ra một giai cấp mới là các đại địa chủ và đại trang chủ có quan hệ với một đảng tự xưng là vô sản và đại biểu của nông dân và công nhân! Họ cướp đất của dân không để xây trường xây chợ mà để làm sân golf, sòng bạc và trở thành tỷ phú mà chẳng quan tâm gì đến cái gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vũ Hoàng: Khi tổng kết lại từ việc cải cách và định giá doanh nghiệp để tư nhân hóa các cơ sở sản xuất nhằm thu hút tư bản, công nghệ và kỹ thuật hầu nâng cao năng suất kinh tế quốc dân, thưa ông, người ta gặp tắc nghẽn là chuyện đất đai. Và đằng sau tắc nghẽn này, mà một biểu hiệu là việc trì hoãn tu chính Luật Đất đai, còn có cả chế độ sở hữu lệch lạc vì trao cho đảng độc quyền cái quyền phân bố tài sản, hoặc cônh hữu hóa, quốc hữu hoá và đảng hữu hóa đất đai của dân. Có phải đấy là kết luận của ông không?
Khi người dân khai khẩn đất đai trên cái diện tích hữu hạn ấy để mở rộng khả năng canh tác thì công lao của họ cũng bị cướp, ai phản đối thì lại bị công an đàn áp.Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy mà đấy mới chỉ là một phần của vấn đề thôi.
Ông Nguyễn-Xuân Nghĩa
So sánh dân số với diện tích lãnh thổ thì Việt Nam không là một nước giàu có, với tài nguyên đất đai thật ra hữu hạn cho cả nông nghiệp lẫn công nghiệp và còn đang bị Trung Quốc chi phối và thu hẹp. Vì thế, người ta cần sử dụng đất với lợi ích cao nhất và phí tổn thấp nhất, kể cả phí tổn tưởng như vô hình là môi trường sinh sống bị ô nhiễm.
Nhưng với quy chế sở hữu hiện nay, một đảng năm xưa tự xưng cách mạng và tranh đấu cho nông dân từ những khẩu hiệu cải cách ruộng đất nay đã cướp đất phá rừng của dân.
Khi người dân khai khẩn đất đai trên cái diện tích hữu hạn ấy để mở rộng khả năng canh tác thì công lao của họ cũng bị cướp, ai phản đối thì lại bị công an đàn áp. Khi nhìn vào việc tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước trong kế hoạch chung là tái cơ cấu kinh tế, người ta đụng vào trở ngại không lối thoát là quyền sở hữu đất đai.
Trở ngại ấy cũng gây ách tắc cho nhiều nỗ lực cải cách khác, từ tài chính ngân hàng đến thị trường bất động sản, từ thuế khóa đến quy hoạch và đô thị hóa. Cái gốc của vấn đề nằm trong sự thể quái đản là nhà nước Việt Nam không công nhận quyền tư hữu của tư nhân và mặc nhiên cho phép tay chân nhà nước trục lợi bất chính và khiến xứ sở bị tụt hậu. Cho nên, người ta vẫn phải cải tổ từ đầu, từ cái đầu và lối tư duy lạc hậu này. Nếu không, chính người dân sẽ đứng lên làm cái việc cải cách cần thiết ấy qua một cuộc cách mạng.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa về cuộc trao đổi tuần này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét