Pages

Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

Cựu ĐBQH Nguyễn Minh Thuyết: Tội cho hai chữ “biểu tình”


http://seablogs.zenfs.com/u/KWBUAiuEERkjhAFGQxTp298PpvQl/photo/ap_20101102032132609.jpg

Ông Nguyễn Minh Thuyết.
 
 
 
 
“Tội cho hai chữ “biểu tình”. Nó có tội vạ gì. Nước ta là một nước dân chủ. Nhưng một Quốc hội dân chủ thì nghị sĩ không cần phải nói khéo. Cũng như một quốc gia dân chủ thì người dân không phải coi cái gì là tế nhị, nhạy cảm”- GS TS Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu QH các khóa XI, XII trả lời PV.
Có những đại biểu chưa quen với dân chủ
PV: Xin bắt đầu bằng cuộc tranh luận nảy lửa trên diễn đàn QH xung quanh dự án luật biểu tình, thưa ông vì sao cũng là những người đại diện cho nhân dân lại có những ý kiến hoàn toàn ngược nhau liên quan đến một quyền cơ bản của công dân?



GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Đại biểu QH là đại diện cho nhân dân và những phát biểu của họ tại QH phải nói lên tiếng nói của người dân. Nhân dân là một tập hợp rất đa dạng, vấn đề là đại biểu phải chắt lọc được những ý kiến phù hợp với lợi ích chung của nhân dân, của đất nước. Khi đại biểu nói điều phù hợp với lợi ích của nhân dân thì họ nói đó là ý kiến cá nhân người dân vẫn đồng tình. Vấn đề không phải là anh nói là nói tiếng nói của ai mà ở chỗ anh nói cái gì và có phù hợp với lợi ích của người dân hay không. Trong trường hợp tranh luận về luật Biểu tình, tôi cho rằng anh Hoàng Hữu Phước ngộ nhận đã đại diện cho nhân dân. Ngay sau cuộc tranh luận tại QH, một tờ báo mạng đã tổ chức thăm dò và kết quả là có tới 98% ý kiến đồng ý việc ban hành luật Biểu tình. Từ Hiến pháp năm 1946, quyền này đã được nói tới dưới hình thức quyền hội họp. Đến Hiến pháp 1959, biểu tình đã được coi là quyền hiến định. Biểu tình là quyền cơ bản của con người và chính nhờ những cuộc biểu tình như thế, Chính phủ mới biết được lòng dân. Xét cho cùng, biểu tình là có lợi cho Nhà nước. Cũng may tại QH vừa rồi còn có ý kiến của anh Dương Trung Quốc chứ nếu không, người dân sẽ nghĩ về QH rất khác. Vụ này cũng là một điển hình về văn hóa nghị trường khi ông Hoàng Hữu Phước tiếp tục “tranh luận” trên blog cá nhân. Dường như có những đại biểu chưa quen với dân chủ, chưa quen với việc người khác nói lại mình và chưa quen với phản ứng của những người đã bầu mình, thông qua báo chí.
PV: Trong chính ngày QH Việt Nam tiến hành chất vấn, QH Hàn Quốc đã biến thành cuộc ẩu đả khi các nghị sĩ đối lập, thậm chí xịt hơi cay vào mặt nhau khi thông qua Hiệp định thương mại Hàn Mỹ. So với nước ngoài, nghị sĩ Việt Nam có vẻ hiền hơn, hay ở Việt Nam các nghị sĩ không đại diện cho những quyền lợi đối lập?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Chúng tôi đã từng thăm quan nghị viện Anh. Những bên đối lập ngồi đối diện, qua một chiếc bàn, với khoảng cách 3m. Người ta giải thích đó là khoảng cách an toàn khi các nghị sĩ muốn “nói chuyện” với nhau bằng… kiếm. Ở nghị viện Ấn độ, các nghị sĩ phản ứng nhau bằng cách đập bàn. Chuyện ẩu đả không hiếm trên nghị trường thế giới. Còn Quốc hội Việt Nam, từ thời dân chủ cộng hòa đến nay chưa từng xảy ra trường hợp nào và QH cũng không chấp nhận chuyện nghị sĩ “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”.
QH Việt Nam không có chuyện ẩu đả đã đành nhưng cũng đúng là các đại biểu lành quá. Lành và không hiểu hết được quyền và nghĩa vụ của mình, hoặc có thể hiểu nhưng ngại.
Những quyền lợi đối lập thì có thể không nhưng sự đại diện của họ cho các nhóm lợi ích thì có. Vừa rồi có đại biểu hai lần phát biểu muốn lái QH theo lợi ích nhóm của mình khi ông ta cho rằng không nên hạn chế tín dụng đối với bất động sản. Ông ta là một doanh nghiệp có kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán và hôm qua tiếp tục chất vấn Thủ tướng bằng cách đề nghị Thủ tướng khuyên các DN nên đầu tư vào đâu. Thủ tướng làm sao mà có quyền khuyên DN đầu tư vào đâu, trừ phi Thủ tướng khuyên nên đầu tư vào miền núi, vùng sâu, hải đảo. Xin Thủ tướng một lời khuyên cũng không phải là chất vấn. Bản thân các giải trình của các Bộ trưởng cũng làm không ít đại biểu và cử tri băn khoăn về nhóm lợi ích. Chẳng hạn giải trình của Bộ Tài chính về lỗ lãi của ngành xăng dầu, hay Bộ Công thương xăng thanh minh câu chuyện lương ngành điện 7,3 triệu đồng chẳng hạn. Các bộ không thể đại diện cho DN như vậy được.
PV: Thưa ông, câu chuyện nghị sĩ đội mũ sắt đi họp ở QH Đài Loan, hay ẩu đả ở nghị viện Nhật Bản thì có thể hiểu là thước đo mức độ dân chủ, hay văn hóa nghị trường?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Cái đó cũng khó để bình luận. Cái có thể thấy rõ là người ta có quyền tranh luận dân chủ. Còn nếu các nghị sĩ đánh nhau mà người dân thấy đó mới là việc bảo vệ quyền lợi cho họ, người dân thấy có thể chấp nhận được thì cũng có sao đâu. Còn văn hóa nghị trường, ở Việt Nam vừa rồi có vị đại biểu khi chất vấn nói Bộ trưởng Bộ GTVT trả lời như thế thì ai làm bộ trưởng cũng được, hoặc khóa XII có vị nói Bộ trưởng nên từ chức, cái đó mới là không chấp nhận được trong văn hóa nghị trường. Trong suốt kỳ họp, tôi rất ấn tượng với các phát biểu tranh luận của anh Dương Trung Quốc và chất vấn của anh Lê Bộ Lĩnh. Đó là những phát biểu sáng giá. Hôm qua anh Lê Bộ Lĩnh đã đưa ra những câu hỏi đúng tầm chính khách. Hỏi những điều mà người dân quan tâm và chờ đợi. Điều đáng chú ý là anh Lê Bộ Lĩnh đã hỏi về “biểu hiện lòng yêu nước” thay vì dùng chữ biểu tình- dù người nghe ai cũng hiểu. Nhưng cũng tội cho hai chữ “biểu tình”. Nó có tội vạ gì. Nước ta là một nước dân chủ. Nhưng một Quốc hội dân chủ thì nghị sĩ không cần phải nói khéo. Cũng như một quốc gia dân chủ thì người dân không phải coi cái gì là tế nhị, nhạy cảm.
PV: Chủ tịch QH Nguyễn Văn An từng nói về con số 400, tức là hơn 90% là đảng viên. Khóa này tỷ lệ còn cao hơn. Đây là một trong những nguyên nhân khiến các cuộc tranh luận tại Quốc hội có kết quả khác với nghị quyết của QH mà trường hợp 92,9% đại biểu thông qua dự án mở rộng thủ đô là một ví dụ?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Cũng chính Chủ tịch Nguyễn Văn An giải thích với các bạn nước ngoài về việc 90% đại biểu QH là đảng viên có đảm bảo dân chủ không, rằng: Ở bên các bạn mỗi đảng viên ra trước QH chỉ phát biểu theo quan điểm của đảng. Còn ở Việt Nam, ý kiến của các đại biểu là đảng viên vẫn đảm bảo đa dạng, đảm bảo tranh luận. Chỉ có lúc biểu quyết thì đúng là có vấn đề thật. Bởi khi Trung ương đã quyết thì đảng viên phải theo nghị quyết của TƯ. Khi thăm dò dự án mở rộng thủ đô, tôi nhớ có 226 phiếu thuận và 226 phiếu chống. Nhưng khi biểu quyết thì tỷ lệ lên tới 92,9% tán thành. Chỉ có 4 phiếu chống, trong đó có phiếu của tôi. Tôi nghĩ mình là đại biểu của dân nghĩ sao thì nói vậy, và đã nói thì làm đúng những điều mình nói. Nhưng cũng may con số hồi đó là 92,9% chứ nếu là 100% thì không thể chấp nhận nổi. Tuy nhiên sau nghị quyết mở rộng thủ đô thì đã có sự điều chỉnh. Những trường hợp TƯ chưa ra nghị quyết thì đại biểu có thể biểu quyết theo quan điểm riêng mà trường hợp dự án Đường sắt cao tốc sau đó là một ví dụ.

Quốc hội toàn nợ, toàn treo những luật rất cơ bản

PV: Kể từ năm 1992, Quốc hội khóa nào cũng được mùa làm luật, tuy nhiên vì sao những dự án luật liên quan đến dân chủ dân quyền, chẳng hạn như luật lập hội, luật biểu tình, vì QH lại nợ dân lâu đến như vậy? Thưa ông?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Chương trình xây dựng luật hầu hết đều do Chính phủ đề xuất. Chính phủ có thể cân đối các mặt nhưng sự quy hoạch là không rõ ràng. Trước năm 2003, QH tập chung làm các luật liên quan đến kinh tế để đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên giai đoạn đó qua rồi. Quả thực là QH nợ nhân dân quá lâu. Có lẽ các luật liên quan đến quền tự do dân chủ của dân, dù là cơ bản, nhưng lại nhạy cảm. Cứ thập thò đưa ra rồi lại rút. Luật lập hội, trưng cầu dân ý đã được đưa ra QH thảo luận từ khóa XI nhưng sau đó rút lại. Luật báo chí sửa đổi chẳng hạn, rất nhiều cái không rõ ràng mà giờ muốn sửa cũng không được chưa biết bao giờ mới thông qua. Ở Mỹ không có luật Báo chí. Người ta lập luận rất hay là bởi có luật là có giới hạn, mà về nguyên tắc báo chí phải được tự do.
PV: Ông vừa dùng từ “nhạy cảm”. Như thế nào là nhạy cảm, thưa ông?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Đó là một câu chuyện rất lạ ở nước ta mà không thể giải thích rõ ràng được. Mặc dù mình là một nhà nước dân chủ, nhưng cứ động đến dân chủ, nhân quyền thì lại cho là nhạy cảm. Chống tham nhũng cũng thế, cứ như là chống Chính phủ. Đúng là nợ thật. Là treo thật. Mà toàn nợ, toàn treo những luật rất cơ bản.
PV: Tại kỳ họp trước, QH được “báo cáo riêng” và không có thảo luận về tình hình Biển Đông. Vừa rồi QH nghe báo cáo dự thảo luật Biển, rồi thảo luận trong tình trạng họp kín. Một dự án luật có nhất thiết phải họp kín, thưa ông?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Không có quy định rõ trường hợp nào thì họp kín, trường hợp nào thì không. Trong những trường hợp những vấn đề bí mật quốc gia hay đối ngoại thì thường là QH họp kín. Ở đây cũng có những lý do hợp lý vì những thảo luận tại QH không ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao. Tuy nhiên QH không nên lạm dụng họp kín bởi khi tình hình buộc người dân quan tâm thì QH phải công khai để người dân được biết và cũng để những nước liên quan biết rõ quan điểm của nhân dân thông qua các nghị sĩ. Bởi khi QH thông qua nghị quyết thì đó mới là cuối cùng cơ mà. Luật liên quan đến toàn dân. Người thực thi là nhân dân. Một chính sách đối ngoại nào đó QH có thể họp kín nhưng riêng đối với các dự án luật thì phải công khai. Tôi cùng nói ngay là các cuộc họp kín đó thực chất cũng chỉ là việc các đại biểu nghe thông báo một chiều, không thảo luận và không được phép tiết lộ ra báo chí.
PV: Tại kỳ họp vừa rồi, lần đầu mới xuất hiện việc các nghị sĩ QH đệ trình dự án luật. Cụ thể là Luật nhà văn và Luật đảm bảo quyền riêng tư. Thoạt tiên đây có vẻ như là một biểu hiện của dân chủ, nhưng theo ông, vì sao cử tri và nhân dân lại phản ứng dữ dội như vậy trước một biểu hiện của dân chủ?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Việc cá nhân đại biểu đề xuất dự án luật theo tôi biết thì không phải đây mới là lần đầu tiên. Còn tại sao việc tự đề xuất dự án luật lần này lại gây sự chú ý và bàn tán của người dân là bởi những dự án luật này rất hời hợt. Chẳng hạn đối với dự án Luật đảm bảo quyền riêng tư, tôi cho đây có lẽ xuất phát từ bức xúc cá nhân của riêng vị đại biểu, hơn là sự cần thiết của dự án đối với nhân dân. Đối với luật Nhà văn, có lẽ là một biểu hiện của sự hời hợt. Người đệ trình, dù có thể xưng mình là nhà văn nhưng thực tế ông ta hoàn hoàn không hiểu bản chất của sự sáng tác là tự do tưởng tượng.
Một dự án luật lại trở thành đề tài đàm tiếu thì rõ ràng dự án luật đó rất nhảm nhí, người đệ trình rất chủ quan, rất thiếu suy nghĩ, và thực tế là sau khi trình, ông nhà văn-nghị sĩ cũng nói không biết vì sao phải trình.
PV: Năm nay, QH tiếp tục có nghị quyết giám sát lời hứa của các vị Bộ trưởng. Nghị quyết này theo ông cần phải làm thường xuyên hơn?
GS TS Nguyễn Minh Thuyết: Theo Luật tổ chức QH, QH có thể ra nghị quyết nếu thấy cần thiết. Nhưng việc ra nghị quyết đến khóa XII mới thực sự bắt đầu và cũng chỉ có ở 2 kỳ họp. Tôi cho rằng QH nhất thiết phải ra nghị quyết để xác định trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành đối với những vấn đề, lĩnh vực điều hành, đồng thời yêu cầu những biện pháp buộc phải thực hiện, khuyến nghị biện pháp cần xem xét. Bởi nếu không có nghị quyết, thì việc thực hiện lại chỉ phụ thuộc vào thiện chí của người thực hiện. Cái đó là không thể được.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Đào Tuấn thực hiện

Không có nhận xét nào: