Pages

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

GIẢI TÁN ? ĐỔI TÊN ? ĐỔI MỚI ? XÉ RÀO ? NGOẶT ? ĐỘT PHÁ ? CHUẨN BỊ “NGOẸO”?

Tổng Hợp Tin Tức ngày 16-11-2011 –Trích Diễn Đàn Paltalk VietnamExodus
Từ khi chào đời, sinh mệnh đảng của những người cộng sản vn là một thực thể “cực bất bình thường”. Đảng này ra đời ngày 6-1-1930 với tên là “Đảng Cộng Sản VN”; thành phần sáng lập gồm toàn người VN. Quốc Tế 3 không chấp nhận “căn cước” ấy, bắt đổi tên đảng thành “Đảng Cộng Sản Đông Dương”, ra đời ngày 3-2-1930 (là ngày cái tên ấy được Liên Xô thừa nhận). Cái tên “có đuôi Đông Dương” đánh hỏng ngọn cờ “giải phóng dân tộc” của cộng sản vn, nhưng “đóng khung” cộng sản vn vào “nghĩa vụ quốc tế” theo “chỉ đạo”của Đế Quốc Liên Xô. Sự thật lịch sử này thường xuyên bị “đặt vấn đề”, khiến “đảng ta” quanh co “lý luận”, ấp úng và lúng túng. Lấy tên là “đảng cộng sản Việt Nam”, thì ngày đảng ra đời phải là 6-1-1930. Nhận ngày khai sinh 3-2-1930 của “đảng cộng sản Đông Dương”, đem ngày ấy “gắn liền” vào tên “đảng cộng sản Việt Nam”, mong “lấp liếm” bản chất “tay sai bán nước”, nghe ra “hơi bị chướng”. Bèn “bổ sung” bằng khẩu hiệu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”.

Quốc Tế Cộng Sản nuôi ảo vọng tiêu diệt tất cả các nền văn minh đương hữu trên hành tinh, áp đặt văn minh cộng sản, đem loài người trở lại thời “chính phủ tự tan biến”, và ai nấy “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Đế Quốc Liên Xô đã trở thành “cái nôi” nuôi lớn ảo vọng đó. Đế Quốc ấy đã có cơ hội “biến ảo vọng thành hiện thực”, cho loài người thấy cái “thiên đường hứa hẹn” kia, trong thực tế, hình thù nó ra sao, cái giá phải trả để thực hiện nó có phải chăng không ? Lịch sử đã cho thấy: ảo vọng vẫn hoàn ảo vọng; cái giá đã trả là hàng trăm triệu sinh mạng, hàng chục cuộc “chiến tranh cục bộ” và một cuộc thế giới đại chiến. Đế quốc Liên Xô đã sụp đổ. Lịch sử đã cho thấy : nhân danh “gieo rắc văn minh” để bành trướng đế quốc, sớm muộn cũng thất bại. Chủ nghĩa cộng sản đã chết ngay trên cái nôi đã sinh ra nó. Không “lý luận” nào có thể “bảo hoàng hơn vua”, tiếp tục “tụng kinh Mác-Lê-nin” mà không bị mắng là “lú lẫn”. Ở Việt Nam hiện nay có ít nhất 14 tên “chóp bu lú lẫn”, vài trăm tên “thừa sai lú lẫn”, vài triệu tên “nô lệ lú lẫn”, được cấp thẻ đảng viên cộng sản.
Cộng sản quốc tế vào VN qua tay sai là đảng csvn, với ngọn cờ “đấu tranh giai cấp”, từ Xô-viết Nghệ Tĩnh đến Nam Kỳ khởi nghĩa, đều thất bại. Cộng sản vn phải giấu ngọn cờ ấy đi, “đội lốt dân tộc để phản bội dân tộc”. Bẩm sinh là “tay sai ngoại bang”, sinh mệnh chúng “gắn liền” với tình hình thăng trầm tồn vong của “nước chủ nhân”. Chủ nhân “có vấn đề”, chúng sẵn sàng phản bội. Khi đế quốc Liên Xô còn “thống nhất”, csvn bán nước cho 1 ông chủ. Đế quốc Liên Xô sắp bị Hitler tiêu diệt, phải giải tán Quốc Tế 3 (tỏ “thiện chí giải thể” đế quốc CS, đổi lại hứa hẹn “giải thực” – décolonisation – từ 2 đế quốc Anh, Pháp), csvn bơ vơ bám vào cộng sản Tàu. Liên Xô ủng hộ QDĐ Tàu, bắt Mao phải “liên hiệp” với Tưởng để chống Nhật, csvn núp theo Tàu Cộng, đồng thời “hối lộ” để được làm tay sai cho Quốc Dân Đảng Tàu. Thậm chí, Hồ đã làm “tờ thú tội” nộp cho Trương Phát Khuê, cam kết “thôi cộng sản” để được cấp tiền bạc, súng ống về VN làm gián điệp cho QDĐ Tàu chống Nhật (Tưởng Vĩnh Kính – “Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc). Ở Việt Bắc, nhân đồng bào sắc tộc cứu được 1 phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi, Hồ “chụp thời cơ” đem phi công ấy sang Tàu nộp cho Mỹ làm quà ra mắt, mở đường làm gián điệp cho Mỹ. Với tiền bạc, khí tài viện trợ Mỹ, có 1 toán biệt kích Mỹ nhảy dù xuống giúp lập đội Tuyên Truyền Giải Phóng Quân (hạt nhân đầu tiên của “bộ đội Cụ Hồ” về sau) năm 1945, csvn trở thành thế lực mạnh nhất, lấp khoảng trống chính trị – political vacuum – ở VN khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Nhờ đó, csvn nhân danh “Đồng Minh thắng trận”, xông ra “cướp thời cơ” ép vua Bảo Đại nhường quyền, thành cái gọi là “cách mạng tháng tám”. Ngày 2-9-1945, Tuyên Ngôn Độc Lập Việt Minh “sao chép” của Mỹ trong ý hướng “dựa hơi thế lực nước ngoài” để củng cố quyền hành. Cũng trong ý hướng đó, ngày 11-11-1945 “Đảng Cộng Sản Đông Dương” ra thông cáo “tự ý giải tán”. Khoản 3 của thông cáo này xác định : “ những đảng viên cộng sản … sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc…” Câu chót của thông cáo nói thêm : “… Những tín đồ của chủ nghĩa cộng sản muốn tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác ở Đông Dương”.(Văn kiện Đảng toàn tập – Tập 8 1945-1947). Thông cáo này cho ta thấy : 1/ Tên đảng, từ “bẩm sinh” có “đuôi Đông Dương” chớ không phải “Việt Nam”; 2/ VGCS khi yếu thế, có thể “đội lốt” bất cứ cái gì, “uốn mình” theo ý bất cứ “thế lực nước ngoài” nào (trước mắt là Trung Hoa Quốc Gia và Mỹ) để “cầu sinh” ; 3/ Liên Xô có đại diện ở Hà Nội lúc đó, đã không công nhận quyền bính vừa cướp được của Việt Minh (cho nên cộng sản vn “cướp quyền” rồi, vẫn “yếu thế”, phải tiếp tục chạy theo Tàu QG và Mỹ).
Bị cả Mỹ lẫn Liên Xô ngó lơ, csvn mở đường phía “thực dân Pháp” – bây giờ được Hồ gọi là “Pháp dân chủ”. Ngày 23-9-1945, Nam Bộ tự động đứng lên kháng chiến chống Pháp, thì ngày 6-3-1946, Hồ ký Hiệp Định sơ bộ, rước Pháp vào Bắc Bộ. Một lần nữa, VGCS đã cho thấy chúng có thể sống “ký sinh” bất cứ “thế lực nước ngoài” nào, miễn là “còn đảng còn mình”. Toàn dân VN tự động đánh Pháp, bất chấp những “đi đêm” của VGCS, khiến Hồ cuối cùng phải tuyên bố “toàn quốc kháng chiến chống Pháp” ngày 19-12-1946. Tinh thần chiến đấu của Quốc Dân Việt rất cao, nhưng vì “căn cước cộng sản” của Hồ và đồng bọn, cuộc kháng chiến đầy chính nghĩa của VN bị VGCS “quốc tế hóa” thành một “bộ phận nóng” trong “chiến tranh lạnh” giữa Đế Quốc Đỏ và thế giới “phi cộng sản”, mà chúng gọi là “phe đế quốc tư bản”. Năm 1949, Tàu làm chủ lục địa Trung Hoa. Năm 1950, Mao-Hồ bắt tay nhau, VGCS có “chủ mới”, có “vận mệnh tương quan” với Tàu, thăng trầm “gắn liền” nhau. Tàu Cộng “tiến”, thì VGCS có “chiến thắng Điện Biên lịch sử”. Tàu Cộng “lùi”, thì VGCS có Hiệp Định Geneva chia đôi đất nước năm 1954, “tiếng là thắng” mà “miếng” là kháng chiến Nam Bộ phải “dẹp tiệm”, bồng bế nhau “tập kết”. Nửa nước VN cộng sản “thắng”, mà 1 triệu người “bỏ phiếu bằng chân”, bỏ cộng sản, di cư vào Nam, mở kỷ nguyên “truyền thống Exodus Việt Nam I”. Liên Xô sau cái chết đột ngột của Stalin năm 1953, mặc dù Hồ đã “đấu tranh giai cấp” long trời lở đất trên nửa nước phía Bắc theo “nhắc nhở” của Stalin năm 1950, vẫn chưa có dấu hiệu “tích cực” nào với ‘tay sai bậc nhì” VGCS. Năm 1956, Liên Xô công bố chủ trương “chung sống hòa bình với tư bản”, khiến “nguyện vọng giải phóng Miền Nam” của VGCS bị “nguội đi”; chúng quay sang cầu xin Tàu Cộng “chi viện”. Chuyện “rước voi Tàu vào” tái diễn y như năm 1950. Lần này “nhận thức chung” (điều kiện theo “mật ước”) nặng nhẹ ra sao, đến nay vẫn chưa ai biết, nhưng “giấy trắng mực đen” thì đã rõ ràng với công hàm 14-9-1958, Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai, nguyện “triệt để tôn trọng” bản đồ biển đảo Nam Hải (ta gọi là Biển Đông) mà Tàu công bố trước đó 10 ngày (4-9-1958), có hình “lưỡi bò”, gói tròn cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa vào lãnh hải thuộc “chủ quyền” Tàu Cộng. Chuyện bây giờ mới “vỡ lở”, nhưng hơn nửa thế kỷ qua, VGCS vẫn “giấu nhẹm”, coi như “Biển Đông là của chung”, và “ai quản lý cũng vậy thôi”.
Năm 1968, Liên Xô và Tàu Cộng nổ súng bắn nhau vì tranh chấp biên giới, chẳng kể “bên kia biên giới cũng là anh em” gì cả. Từ đó, “tổ quốc xã hội chủ nghĩa” vỡ làm đôi. VGCS xưa nay “giữ đoàn kết phe XHCN như giữ con ngươi mắt mình’, bỗng thấy “nổ đom đóm mắt”. Năm 1970, Mao bắt tay Nixon, thế giới vẫn “chia làm hai phe”, nhưng trật tự “ta-bạn-thù” không còn như cũ; VGCS đứng trước chọn lựa giữa hai ông chủ. Với tâm lý “tay sai bẩm sinh”, chúng đã chọn “đứng vào phe” ông chủ “giàu mạnh, hùng cường hơn” là Liên Xô, nhưng kẹt chiến tranh “giải phóng” chưa xong, chúng phải “nhịn nhục Tàu”. Từ 1968, Tàu đã giảm chi viện cho VGCS và “chỉ đạo” VGCS phải nghiêm chỉnh trong hòa đàm với Mỹ, chấm dứt chiến tranh Đông Dương, trao trả đầy đủ tù binh Mỹ, như ta thấy ở hòa đàm Paris 1968-1973. Liên Xô có nhu cầu “răn đe” Mỹ/Tàu, phá cuộc hôn nhân Chimerica, đồng lõa với VGCS, bất chấp Hiệp Định Paris 1973, thay vì tiếp tục chia đôi VN, đánh dấn nuốt trọn VNCH ngày 30-4-1975, khiến Mỹ chỉ bất bình nhưng Tàu “nổi giận”, chuẩn bị “dạy cho bọn côn đồ bài học”. Chiến Tranh Đông Dương lần 3 đã bộc phát, VGCS sa lầy ở Kampuchea ra sao, và khi Liên Xô sụp đổ, chúng trở thành “chó mất chủ” phải sang Tàu bán nước cầu sinh thế nào, mọi người đều thấy rõ. Tất cả bắt nguồn từ căn cước bán nước bẩm sinh của bè lũ VGCS. Suốt dòng sinh mệnh đầy bất trắc của chúng, dù chúng “đội lốt” nào, căn cước ấy cũng lòi ra lồ lộ, vì cái gọi là modus operandi – tác phong hành sự của chúng trước sau như một. Nó gồm 3 “đặc trưng” : 1/ Công An trị kiểu phát-xít Hitler; 2/ Chuyên chính vô sản Xô-viết (Stalin từng coi 2 thứ này là “anh em song sinh”); 3/ Mafia Tây Phương pha trộn với Thiên Địa Hội Tàu, “gắn liền” với thuật trị quốc Tần Thủy Hoàng.
Từ sơ khai, tập hợp cộng sàn VN (không đáng gọi là “đảng”) đã “gắn chặt” sinh mệnh nó vào “thế lực nước ngoài” – nay nước này, mai nước khác, nay bạn mai thù – như một “thực thể ký sinh”. Nó không có “khả năng tự chủ”, nhưng “khả năng cố bám” lại rất mạnh. Cứ mỗi lần lâm nguy, chúng lại “xé rào”, có khi “giải tán”, thay lông đổi áo. Có lúc đã hô hoán “đổi mới hay là chết”. Lúc bị chủ cộng sản bỏ rơi, chúng cũng từng chấp nhận coi “chủ nghĩa Mác như một tôn giáo”, giải tán đảng, lập “Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác”. Chúng dư biết chủ nghĩa Mác đã “đi vào thùng rác”. Chúng tung chiến dịch “long trọng kỷ niệm” bất cứ gì dính líu đến sinh mệnh “đảng ta” suốt mấy năm qua ( thí dụ : “nghìn năm Thăng Long”), chẳng qua là “tự trấn an” và “trấn an nhau” rằng “còn đảng còn mình”.
Chỗ dựa cuối cùng của chúng là Tàu Cộng hiện cũng đang “có vấn đề”. Cửa miệng chúng không ngớt những lời cảnh báo “tình hình vô cùng phức tạp”, hoặc “vô cùng khẩn trương”. Đây đó đang vang vọng, nào là “Đổi Mới Đợt Hai”, nào là “đứng trước bước ngoặt”, nào là “đổi mới tư duy”. Chúng đang tuyên truyền ồn ào chuyện “sửa đổi Hiến Pháp”, chuyện “trở về hiến Pháp 1946”, chuyện “bổ sung”, “bổ túc” hiến pháp đương hành, v.v… Khi cựu ủy viên Bộ Chính Trị Nguyễn Văn An đã tóm gọn nguy cơ trước mắt của VGCS là “lỗi hệ thống”, mọi “gợi ý”, “kiến nghị”, hay “tham vấn” đều vô ích, vì một là “nước đổ đầu vịt”, hai là “lực bất tòng tâm”.
Khi bọn “chóp bu” Tàu và “Ta” còn xưng hô nhau là “đồng chí”, thì đửng hòng VGCS “thoát thân” khỏi “thủ đoạn trói buộc” Tàu. Khi mà cỗ máy cai trị còn tăng cường “thứ nhất rỉ tai thứ hai mã tấu”, thì lời hô hào “đột phá lý luận, tạo tiền đề…” này nọ chỉ đáng “nghe qua rồi bỏ”. Chế độ này đã “hết thuốc chữa”. Phải dẹp bỏ nó.

Không có nhận xét nào: