Pages

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

Giới thiệu sách: Henry A. Kissinger - On China

Phần 1:

Cymbidium, X-Cafe giới thiệu và trích dịch
Lời giới thiệu: Cuốn "On China" của với tác giả là Henry Kissinger, một người mà tên tuổi đã gắn liền với những năm cuối cùng của VNCH, là một quyển sách về chính trị, ngoại giao rất hay. Quyển này có thể được cho là một nửa tự truyện và một nửa sách sử cận đại thế giới.
Với hơn 500 trang, tác giả đã đưa người đọc đi từ thời Thập Nhị Tứ Quân xa xưa của Trung Quốc cho đến giai đoạn bị các ngoại bang "barbarians" xâu xé chia ra Trung Quốc từng miền để khai thác đem tài nguyên về mẫu quốc, chiến tranh nha phiến (opium war) với Anh Quốc, rồi đến sự xuất hiện của Mao và diễn tiến thống nhất Trung Quốc sau đệ nhị Thế Chiến. Henry Kissinger đã nghiên cứu rất nhiều về sử Trung Quốc dưới con mắt của một chiến lược gia chính trị và ngoại giao. Vì đã đi Trung Quốc hơn 50 lần và tiếp cận với 4 thủ tướng khác nhau, Trung Quốc đã có thể đọc được những gì giới lãnh đạo Trung Quốc nghĩ trong đầu và đoán được đường đi nước bước của họ từ thời Chiến Tranh Lạnh.
Henry Kissinger hiểu Mao, Chu Ân Lai, và tương lai của Trung Quốc hơn bất cứ người nào sống ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Henry Kissinger đã kể công Mao, Chu Ân Lai, và Đặng Tiểu Bình rất nhiều trong cuộc thống nhất và tái thiết Trung Quốc để đưa quốc gia này đến cương vị cường quốc hiện nay. Nhưng nếu đọc giả muốn biết thêm về cuộc nội chiến với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, các cuộc thanh trừng nội bộ đẫm máu như Trường Chinh, Bước Đại Nhảy Vọt, Trăm Hoa Đua Nở, Cách Mạng Văn Hoá, Hồng Vệ Binh, Giang Thanh thì họ sẽ thất vọng. Có lẽ vì là một chiến lược gia, Henry Kissinger đã coi nhẹ cái giá về nhân bản mà dân Trung Quốc phải trả qua 70 triệu oan hồn. Trong suốt quyển sách, Henry Kissinger tập trung vào chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Hoa Kỳ, đặc biệt là quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Liên Xô. Điểm ngoạn mục mà Trung Quốc đã gián tiếp cho biết là nếu không nhờ vào một nước cờ của Hoa Kỳ trong thời Chiến Tranh Lạnh, quân đội Liên Xô đã tràn ngập các căn cứ quân sự của Trung Quốc và có thể thế giới đã không có một Trung Quốc như ngày nay.
Qua quyển sách, Henry Kissinger đã cho thấy một Trung Quốc vô cùng khôn ngoan và sự quyết tâm, lòng yêu nước nhiệt tình của chính quyền và dân chúng Trung Quốc . Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, ngay cả đến Mao cũng phải tự xét lại ý thức hệ Cộng Sản và tiến trình "cách mạng không ngừng" của mình.
Trích dịch chương 13: Sờ Mông Cọp
Vào tháng 4 năm 1979, sáu tuần sau khi Trung Quốc (TQ) rút quân về từ Việt Nam, Hoa Quốc Phong, lúc ấy còn làm Thủ tướng, tổng hợp kết quả của chiến tranh Việt Nam thứ ba bằng một câu với mục đích châm chọc một cách khinh bỉ vai trò của Liên Xô : "Họ đã không dám động đậy. Rốt cuộc, chúng ta vẫn có thể sờ mông cọp."
TQ xua quân qua Việt Nam để "dạy một bài học" sau khi quân đội Việt Nam chiếm Cam Bốt để trả đũa cho các loạt đụng độ biên giới với quân Khmer Đỏ, và để theo đuổi mục tiêu cuối cùng của Hà Nội là thành lập Liên Hiệp Đông Dương. TQ làm như vậy để thách thức hiệp ước tương ứng phòng thủ giữa Hà Nội và Moscow được ký kết chưa đuợc một tháng trước đó. Cuộc chiến đã gây rất nhiều tổn thất cho quân đội TQ lúc đó vẫn chưa hoàn toàn phục hồi từ những tai hại của cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Nhưng cuộc xâm lược của TQ đã hoàn tất mục tiêu nòng cốt của họ: Liên bang Xô viết đã tự chứng minh giới hạn tầm chiến lược của mình khi không có phản ứng nào. Quan điểm này có thể được cho là bước ngoặt của Chiến Tranh lạnh, mặc dù vào lúc đó ít người hoàn toàn hiểu như vậy. Chiến tranh Việt Nam thứ ba cũng là cao điểm của hợp tác chiến lược Trung-Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Lạnh.
Việt Nam: Sự Bối Rối Của Các Cường Quốc
TQ vướng vào Chiến tranh Việt Nam thứ ba bởi các yếu tố giống như những gì đã đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến thứ hai. Có một cái gì đó hầu như điên cuồng trong chủ nghĩa dân tộc Việt Nam làm các quốc gia khác mất cảm giác về kích thước và hiểu lầm động lực và khả năng của người Việt Nam. Các sử gia hiện đang cho đó chính là căn bệnh của nước Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam thứ hai (chiến tranh đầu tiên là cuộc chiến chống thực dân Pháp). Người Hoa Kỳ lúc đó không tin rằng một quốc gia trung bình đang phát triển có thể nung nấu một ý chí quyết liệt chỉ để cho chính nghĩa có tính cách giới hạn nội bộ của nó. Do đó, họ cho hành động của Việt Nam là biểu tượng của một ý đồ sâu xa hơn. Sự hiếu chiến của Hà Nội được coi là đội tiên phong của âm mưu phối hợp Trung-Xô để thống chế ít nhất là châu Á. Và Washington cũng tin rằng một khi đội tiền quân của Hà Nội bị chặn, một thỏa hiệp ngoại giao nào đó sẽ xuất hiện.
Cả hai lập luận trên đều sai. Hà Nội không phải là chư hầu của bất kỳ quốc gia nào khác. Họ chiến đấu cho tương lai độc lập của họ, và với mục đích cuối cùng là cho một Liên Hiệp Đông Dương mà nó sẽ cho họ vai chủ chốt ở Đông Nam Á như Bắc Kinh đã từng đóng ở Đông Á. Đối với một dân tộc đơn giản còn sống sót sau bao thế kỷ xung đột với TQ, thỏa hiệp là điều không thể có giữa ý tưởng độc lập của họ và quan niệm về ổn định của bất cứ người ngoài nào khác. Thảm cảnh của chiến tranh Việt Nam thứ hai ở Đông Dương là hành động tương tác giữa sự mong muốn thỏa hiệp của Hoa Kỳ và sự quyết tâm chiến thắng của Miền Bắc Việt Nam.
Trong ý nghĩa đó, sai lầm chính của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam không phải là câu hỏi chia rẽ công chúng Hoa Kỳ như chính phủ Hoa Kỳ có đủ hết lòng cho một kết quả ngoại giao không. Chính ra, điều sai lầm là họ không có khả năng đối mặt với thực tế là cái được gọi là kết quả ngoại giao mà các chính quyền nối tiếp của cả hai đảng phái chính trị Hoa Kỳ đã quá tha thiết, thậm chí tuyệt vọng theo đuổi, đòi hỏi áp lực ở mức độ làm Hà Nội thất trận hoàn toàn mà trong đó Moscow và Bắc Kinh chỉ đóng vai tạo thuận tiện chứ không phải chỉ huy.
Nói một cách hạn chế hơn, Bắc Kinh rơi vào một quan niệm sai lầm tương tự. Khi vai trò của Hoa Kỳ tại Việt Nam bắt đầu gia tăng, Bắc Kinh giải thích sự kiện đó theo cách chơi cờ vây: đó là một ví dụ nữa về các căn cứ Hoa Kỳ bao vây TQ từ Hàn Quốc đến eo biển Đài Loan và bây giờ xuống đến Đông Dương. TQ ủng hộ chiến tranh du kích của Miền Bắc Việt Nam, một phần vì nguyên nhân ý thức hệ, một phần để giữ căn cứ Hoa Kỳ càng xa biên giới TQ càng tốt. Chu Ân Lai nói với Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng vào tháng Tư năm 1968 rằng TQ ủng hộ Miền Bắc Việt Nam để ngăn chặn chiến lược bao vây TQ, và Phạm Văn Đồng đã trả lời một cách mơ hồ - phần lớn bởi vì ngăn chặn bao vây TQ không phải là mục đích của Việt Nam và mục tiêu của Việt Nam là những gì liên quan đến quốc gia của họ:
Chu Ân Lai: Trong một thời gian dài, Hoa Kỳ đã bao vây một nửa TQ. Hiện nay Liên Xô cũng bao vây TQ. Vòng bao vây đang khép kín ngoại trừ phần về phía Việt Nam.
Phạm văn Đồng: Tất cả chúng tôi đều quyết tâm đánh bại đế quốc Hoa Kỳ trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
CÂL: Đó là lý do tại sao chúng tôi hỗ trợ Việt Nam.
PVĐ: Chiến thắng của chúng tôi sẽ có một tác động tích cực ở Á Châu. Nó sẽ mang lại kết quả không lường trước được.
CÂL: Ông cứ nên nghĩ như thế.
Trong việc theo đuổi chiến lược TQ mà Phạm Văn Đồng đã cẩn thận tách biệt, TQ đã gửi hơn 100.000 nhân viên quân sự không chiến đấu để hỗ trợ hạ tầng cơ sở Miền Bắc Việt Nam và hậu cần. Hoa Kỳ chống Miền Bắc Việt Nam vì cho đó là mặt trận thể hiện ý đồ Trung-Xô. TQ hỗ trợ Hà Nội vì cho rằng Hoa Kỳ có tham vọng thống trị Á Châu. Cả hai đều là sai lầm. Hà Nội đã chiến đấu chỉ cho quốc gia của họ. Sau khi chiến thắng vào năm 1975 trong cuộc chiến thứ hai, một nước Việt Nam thống nhất do Cộng sản lãnh đạo đã trở nên một mối đe dọa chiến lược rất lớn đối với TQ so với Hoa Kỳ.
Người Việt trông chừng hàng xóm phía Bắc của họ với cặp mắt nghi ngờ gần đến độ sợ sệt hoang tưởng. Trong suốt thời gian dài dưới ách đô hộ TQ, Việt Nam đã hấp thụ hệ thống Hán tự và các thể thức chính trị và văn hóa (qua bằng chứng ngoạn mục nhất là hoàng cung và các ngôi mộ tại cố đô Huế). Tuy nhiên, Việt Nam đã sử dụng các thể chế "TQ" này để xây dựng một quốc gia riêng biệt và củng cố nền độc lập riêng của họ. Vị trí địa lý đã không cho phép Việt Nam rút vào thế cô lập như Nhật Bản đã làm trong khoảng thời gian tương ứng trong lịch sử của họ. Từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ mười, không ít thì nhiều, Việt Nam nằm dưới sự cai trị của TQ, họ chỉ hoàn toàn trở nên một quốc gia độc lập sau sự sụp đổ của triều đại nhà Đường vào năm 907.
Bản sắc dân tộc Việt Nam phản ánh di sản của hai sức mạnh có phần mâu thuẫn: trên một mặt, hấp thụ văn hóa TQ, trên mặt khác, chống đối sự cai trị chính trị và quân sự của TQ. Chống cự TQ đã giúp nẩy sinh một niềm tự hào mãnh liệt về nền độc lập và một truyền thống quân sự đáng sợ của người Việt. Sự hấp thu văn hóa TQ đã cho Việt Nam một tầng lớp tinh tú theo phong cách Nho giáo TQ, họ có một phong thái cá biệt nào đó của một quốc vương trong khu vực đối với các hàng xóm của họ. Trong các cuộc chiến tranh Đông Dương ở thế kỷ thứ 20, Hà Nội đã tỏ cái ý thức quyền thụ hưởng chính trị và văn hóa của họ bằng cách tự tiện sử dụng lãnh thổ trung lập của Lào và Cam Bốt như thể đó là quyền của họ và sau chiến tranh, họ mở rộng "mối quan hệ đặc biệt" với các phong trào Cộng sản trong các quốc gia này, chẳng khác gì bị Việt Nam cai trị.
Việt Nam đối mặt với TQ bằng một thử thách về tâm lý và địa chính trị chưa từng thấy. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã quen thuộc với nghệ thuật chiến tranh của Tôn Tử và dùng các nguyên tắc đó với một hiệu quả đáng kể đối với cả Pháp lẫn Hoa Kỳ. Ngay cả trước khi các cuộc chiến tranh Việt Nam dài kết thúc, đầu tiên với Pháp trong việc theo đuổi đòi lại thuộc địa của họ sau Thế Chiến Thứ II, và sau đó với Hoa Kỳ từ 1963 cho đến 1975, cả Bắc Kinh và Hà Nội đều bắt đầu nhận thức rằng cuộc thi thố kế tiếp sẽ là giữa họ cho vị trí thống trị ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Gần gũi văn hóa có thể giải thích cho sự vắng mặt tương đối của điều chắc chắn trong phân tích chiến lược thường được dùng để hướng dẫn chính sách của TQ trong chiến tranh Việt Nam. Trớ trêu thay, chủ ý chiến lược lâu dài của Bắc Kinh dường như tương đương với chủ ý của Washington: một viễn cảnh trong đó bốn quốc gia Đông Dương (Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, Cam Bốt, và Lào) cân bằng lẫn nhau. Điều này có thể giải thích lý do tại sao Mao, khi phác họa các kết quả hậu chiến có thể xảy ra với Edgar Snow vào năm 1965, liệt kê một giải pháp khả thi là giữ Miền Nam Việt Nam, và do đó, được xem là có thể chấp nhận được.
Trong chuyến đi Bắc Kinh bí mật vào năm 1971, CÂL giải thích mục tiêu của TQ ở Đông Dương là phi chiến lược cũng như phi ý thức hệ. Theo CÂL, chính sách của TQ ở Đông Dương hoàn toàn dựa vào món nợ lịch sử từ các triều đại xa xưa. Có thể các nhà lãnh đạo TQ giả định rằng Hoa Kỳ không thể bị đánh bại và Miền Bắc Việt Nam sẽ trở nên phụ thuộc nhiều vào viện trợ của TQ như Bắc Hàn đã từng bị phụ thuộc vào TQ sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc.
Trong khi chiến tranh tiếp diễn, có một số dấu hiệu cho thấy chính TQ đang chuẩn bị khi Hà Nội chiến thắng, mặc dù miễn cưỡng. Tin tình báo cho biết việc TQ xây đường xá ở phía bắc Lào không liên quan đến cuộc chiến đang diễn ra với Hoa Kỳ nhưng nó sẽ giúp ích cho chiến lược hậu chiến để cân bằng Hà Nội hoặc thậm chí cho một cuộc xung đột có thể xảy ra ở Lào. Năm 1973, sau Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh Việt Nam, CÂL và tôi thương lượng một giải pháp hậu chiến cho Cam Bốt dựa vào liên minh giữa Norodom Sihanouk (cựu lãnh tụ của Cam Bốt đang lưu vong tại Bắc Kinh), chính phủ Nam Vang vào thời điểm đó, và Khmer Đỏ. Mục đích chính của liên minh là tạo ra một trở ngại cho cuộc xâm lăng trên toàn Đông Dương của Hà Nội. Rốt cuộc thỏa thuận bị hủy bỏ khi Quốc hội Hoa Kỳ cấm bất cứ vai trò quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực, làm cho nhiệm vụ của Hoa Kỳ không còn thích hợp.
Tôi nhận ra thái độ thù địch tiềm tàng của Hà Nội với đồng minh phía bắc của họ trong một chuyến thăm Hà Nội trong tháng 2 năm 1973 để dàn xếp việc thực hiện Hiệp định Paris được ký kết hai tuần trước đó. Lê Đức Thọ đưa tôi đi thăm viện bảo tàng quốc gia ở Hà Nội với chủ yếu cho tôi xem các khu trưng bày dấu tích đấu tranh lịch sử của Việt Nam chống TQ - lúc đó vẫn chính thức là đồng minh của họ. Với sự sụp đổ của Sài Gòn vào năm 1975, hiềm khích lịch sử tiềm tàng đã bật lộ, đưa đến một chiến thắng địa chính trị thay vì ý thức hệ. Nó đã chứng minh rằng không phải một mình Hoa Kỳ đánh giá sai ý nghĩa của chiến tranh Việt Nam. Khởi đầu khi Hoa Kỳ can thiệp, TQ xem sự kiện đó như là một cơn thở hắt cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc. Họ hầu như thường xuyên chia sẻ với Hà Nội. Họ giải thích sự can thiệp của Hoa Kỳ như là một bước nữa để bao vây TQ - y hệt như họ đã từng xem sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Hàn Quốc một thập niên trước đó.
Trớ trêu thay, từ quan điểm địa chính trị, lợi ích lâu dài của Bắc Kinh và Washington đáng lý ra phải đi đôi với nhau. Đáng nhẽ cả hai nên để nguyên tình trạng án binh bất động, nghĩa là một Đông Dương được phân chia giữa bốn quốc gia. Washington không muốn Hà Nội thống trị Đông Dương vì ý tưởng trật tự toàn cầu của Tổng Thống Wilson qua quyền tự quyết của các quốc gia hiện hữu và khái niệm về âm mưu Cộng Sản trên toàn cầu. Bắc Kinh cũng có cùng mục tiêu chung như vậy, nhưng từ quan điểm địa chính trị, vì họ muốn tránh sự thành hình của một khối Đông Nam Á ngay ranh giới phía nam của họ.
Trong một thời gian dài, Bắc Kinh dường như tin rằng ý thức hệ Cộng sản sẽ làm lu mờ một lịch sử ngàn năm chống đô hộ giặc TQ của ngưòi Việt Nam. Nếu không họ đã không nghĩ rằng Hoa Kỳ có thể đi đến thất bại hoàn toàn như thế. Sau khi Sài Gòn sụp đổ, Bắc Kinh đã phải đối diện với những cái khó khăn mà chính sách của chính họ đã gây ra. Và họ phải co vòi trước những nan giải này. Kết quả xảy ra ở Đông Dương đã chạm vào mối lo âu bị bao vây thường trực của TQ. Ngăn chặn một khối Đông Dương liên kết với Liên Xô đã trở thành mối bận tâm hàng đầu của chính sách đối ngoại của TQ dưới thời Đặng Tiểu Bình và nó cũng trở thành một cầu liên kết tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ. Hà Nội, Bắc Kinh, Moscow và Washington đang là bốn tay chơi của bàn cờ wei. Những biến cố ở Cam Bốt và ở Việt Nam sẽ định đoạt ai là người bị vây và bị vô hiệu hóa: Bắc Kinh hay Hà Nội.
Cơn ác mộng của Bắc Kinh bị bao vây bởi một thế lực thù địch dường như trở thành hiện thực. Một mình Việt Nam cũng đã là một lực lượng ghê gớm. Nhưng nếu để họ thành lập Liên Hiệp Đông Dương, họ sẽ có một khối 100 triệu dân và sẽ có một vị thế tạo áp lực đáng kể đối với Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á khác. Trong bối cảnh này, lấy sự độc lập của Cam Bốt như là một đối trọng với Hà Nội trở thành mục tiêu chủ yếu của TQ. Sớm như tháng Tám năm 1975, ba tháng sau khi Sài Gòn thất thủ - Đặng Tiểu Bình nói với nhà lãnh đạo Khmer Đỏ Khieu Samphan đang thăm TQ: "Khi một siêu cường [Hoa Kỳ] bị bắt buộc phải rút quân khỏi Đông Dương, một siêu cường khác [Liên Xô] nắm lấy cơ hội ... để thò các xúc tu ác độc của nó đến khu vực Đông Nam Á ... trong nỗ lực bành trướng đến đó." Đặng Tiểu Bình nói "Cam Bốt và TQ, cả hai ... đối mặt với nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và bá chủ hoàn cầu ... Chúng tôi chắc chắn tin rằng ... hai dân tộc của chúng ta sẽ đoàn kết chặt chẽ hơn nữa và cùng nhau diễu hành hướng tới chiến thắng mới trong cuộc đấu tranh chung." Trong chuyến viếng thăm Bắc Kinh vào năm 1976 của Thủ tướng Chính phủ Lào Kaysone Phomvihane, Thủ tướng Hoa Quốc Phong cảnh báo về Liên Xô đại loại như: "Đặc biệt, cái siêu cường ra vẻ 'hoà hoãn' trong khi xoè móng vuốt khắp nơi này đang đẩy mạnh bành trướng vũ trang, sửa soạn chiến tranh, cố gắng đưa các quốc gia vào phạm vi ảnh hưởng của mình và chơi trò chúa bá quyền."

Phần 2:

Vì không còn sự cần thiết phải giả vờ đoàn kết Cộng sản trước mối đe dọa "đế quốc" Hoa Kỳ, những kẻ thù của quốc gia này chuyển sang hằn học ra mặt với nhau sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975. Trong sáu tháng kể từ khi tất cả Đông Dương sụp đổ, 150.000 dân gốc Việt đã buộc phải rời khỏi Cam Bốt. Một con số tương đương dân Việt gốc TQ bị đuổi khỏi Việt Nam. Tháng 2 năm 1976, TQ chấm dứt chương trình viện trợ cho Việt Nam, và một năm sau đó, họ ngưng tất cả tiếp tế dựa trên các chương trình hiện có. Đồng thời, Hà Nội ngả hẳn về phía Liên Xô. Trong một cuộc họp của Bộ Chính trị Việt Nam vào tháng 6 năm 1978, TQ đã được xác định là "kẻ thù chính" của Việt Nam. Cùng tháng đó, Việt Nam gia nhập Comecon, một khối thương mại mà Xô viết dẫn đầu. Vào tháng 11 năm 1978, Liên Xô và Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó có các điều khoản quân sự. Trong tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam xâm lăng Cam Bốt, lật đổ Khmer Đỏ và lập một chính phủ ủng hộ Việt Nam.
Cuộc xung đột đã mất hẳn tính chất ý thức hệ. Thay vào đó, các trung tâm quyền lực Cộng sản đang thực hiện một cuộc ganh đua cán cân quyền lực trên lợi ích quốc gia.
Từ quan điểm Bắc Kinh, cơn ác mộng chiến lược đang thành hình dọc theo biên giới TQ. Ở phía Bắc, sự gia tăng quân số của Liên Xô tiếp tục không suy giảm: Moscow vẫn duy trì gần 50 sư đoàn dọc theo biên giới. Về phía Tây TQ, A Phú Hãn vừa trải qua một cuộc đảo chính Mác Xít và bị Liên Xô ngày càng công khai chi phối. Bắc Kinh cũng nhìn thấy bàn tay lông lá của Moscow trong cuộc cách mạng Iran với kết quả là Shah bị hạ bệ vào ngày 16 tháng 1 năm 1979. Moscow tiếp tục thúc đẩy một hệ thống an ninh tập thể Á châu không ngoài mục đích chính đáng nào hơn là kiềm chế TQ. Trong khi đó, Moscow đang đàm phán hiệp ước SALT II với Washington. Đối với Bắc Kinh, các thỏa thuận như vậy có mục đích "Đông tiến" về phía TQ. TQ dường như đang có một vị trí cực kỳ bất an. Việt Nam hiện giờ đã tham gia vào khối Liên Xô. Dự báo "kết quả không lường trước được" của Phạm Văn Đồng vào năm 1968 hình như gồm cả điều Liên Xô bao vây TQ. Một rắc rối nữa là tất cả những thách thức này xảy ra trong khi ĐTB vẫn còn củng cố vị trí của mình khi trở lại cầm quyền lần thứ hai, một quá trình đến năm 1980 mới hoàn tất.
Sự khác biệt chính giữa chiến lược ngoại giao TQ và Tây phương nằm trong phản ứng trước nhận thức bị nguy hiểm. Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Tây phương cho rằng lúc đó họ nên hành động một cách cẩn thận để tránh khiêu khích; nhưng phản ứng của TQ lại có khả năng khuyếch trương thách thức. Ngoại giao Tây phương có xu hướng dàn xếp một cán cân lực lượng bất lợi qua một giải pháp ngoại giao bắt buộc, họ dùng các sáng kiến ngoại giao để đặt đối thủ vào cương vị "sai lầm" với mục đích cô lập về mặt đạo đức nhưng tránh sử dụng bạo lực - đó chính là điều Hoa Kỳ tư vấn cho ĐTB sau khi Việt Nam xua quân chiếm đóng Cam Bốt. Chiến lược gia TQ thường thường gia tăng sự quyết chí để thay thế lòng can đảm và áp lực tâm lý của họ trước lợi thế vật chất của đối phương. Họ tin vào sự răn đe dưới hình thức đánh đòn phủ đầu. Khi nhà cầm quyền TQ nhận thấy đối thủ của họ đang nắm lợi thế quá mức có thể chấp nhận được và xu hướng chiến lược đang có chiều hướng bất lợi cho TQ, họ phản ứng bằng cách cố gắng phá hoại sự tự tin của đối phương để TQ dành lại tay trên về tâm lý, nếu không muốn nói là vật chất.
Trước những mối đe dọa đến từ tất cả các hướng, ĐTB quyết định dùng thế công về ngoại giao và chiến lược. Mặc dù chưa hoàn toàn cầm quyền ở Bắc Kinh, ông mạnh dạn hành động trên nhiều cấp độ ở ngoại quốc. Ông đổi cương vị của TQ đối với Liên Xô bằng cách từ bỏ ngăn chặn để qua chiến lược thù nghịch ra mặt. TQ không còn tự giới hạn mình trong việc tư vấn Hoa Kỳ về cách thức làm thế nào để ngăn chặn Liên Xô; họ bây giờ đóng một vai trò tích cực trong việc xây dựng một liên minh chống Liên Xô và chống Việt Nam, đặc biệt là ở Á châu. Điều này cho thấy họ đang sửa soạn một cuộc thách thức với Hà Nội.
Chính sách Đối ngoại của Đặng Tiểu Bình - Đối thoại với Hoa Kỳ và Bình thường hoá
Khi trở về cầm quyền từ kỳ lưu vong lần thứ hai vào năm 1977, Đặng Tiểu Bình (ĐTB) đảo ngược chính sách đối nội của Mao, nhưng hầu như để yên chính sách đối ngoại. Lý do là bởi vì cả hai đều chia sẻ cảm xúc yêu nước mạnh mẽ và cùng có quan điểm song song về lợi ích quốc gia của TQ. Đó cũng là vì chính sách đối ngoại đã đặt giới hạn tuyệt đối cho thôi thúc cách mạng của Mao hơn là chính sách đối nội.
Tuy nhiên, nếu xem kỹ thì thấy sự khác biệt đáng kể trong phong cách giữa Mao Trạch Đông và ĐTB. Mao nghi ngờ ý đồ chiến lược của Hoa Kỳ về chính sách với Liên Xô. ĐTB thì gắn bó với lợi ích chiến lược và tập trung vào việc đạt đến sự thi hành song song với Hoa Kỳ. Mao đối phó với Liên Xô như là một thứ đe dọa chiến lược trừu tượng có nguy hại không những cho TQ mà còn cho cả thế giới còn lại. ĐTB nhận ra sự nguy hiểm đặc biệt cho TQ, nhất là mối đe dọa trực tiếp ngay tại biên giới phía nam của TQ gồm với mối đe dọa tiềm ẩn ở phía bắc. Do đó, đối thoại vói họ có tính cách hành động nhiều hơn. Mao cư xử như một thày giáo thất trí, ĐTB như một đối tác hay đòi hỏi.
Trong khi đối mặt với hiểm họa thực tế, ĐTB kết thúc sự mâu thuẫn về mối quan hệ với Hoa Kỳ vào năm cuối cùng của Mao. Thế là TQ hết thèm thuồng cơ hội đại diện cho cách mạng thế giới. Trong tất cả các cuộc hội thoại sau khi trở về, ĐTB bào chữa rằng TQ và Nhật Bản cần phải được đưa vào một thiết kế toàn cầu trong việc chống chính sách bành trướng của Liên Xô về phía Âu châu.
Dù cho các hoạt động tư vấn giữa TQ và Hoa Kỳ đã trở thành gần gũi đến đâu, điều bất thường là Hoa Kỳ vẫn chính thức công nhận Đài Loan là chính phủ hợp pháp của TQ và Đài Bắc là thủ đô của TQ. Kẻ thù của TQ dọc theo biên giới phía Bắc và phía Nam có thể lợi dụng sự không công nhận này như một cơ hội.
Bình thường hóa quan hệ được đưa lên ưu tiên hàng đầu chương trình nghị sự Trung-Hoa Kỳ khi Jimmy Carter lên nắm quyền. Chuyến thăm Bắc Kinh đầu tiên tới của tân Bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance, trong tháng 8 năm 1977 đã không mang đến kết quả tốt đẹp. Ông viết trong hồi ký:
“… Tôi rời Washington... với cảm nghĩ rằng không nên đề cập đến vấn đề chính trị nhậy cảm như bình thường hoá với TQ cho đến khi vấn đề Panama [phê chuẩn hiệp ước kênh đào Panama để trao lại quyền điều hành] được giải quyết xong, trừ khi - dù không mong xảy ra, TQ chấp nhận tất cả đề nghị của Hoa Kỳ. Vì các lý do chính trị, tôi định đưa một đề nghị tối đa cho TQ về vấn đề Đài Loan… Vì thế, tôi không mong đợi TQ chấp nhận đề nghị của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy nên làm, mặc dù rốt cuộc chúng tôi có thể phải bỏ ra…”
Đề nghị của Hoa Kỳ về Đài Loan bao gồm một loạt các ý tưởng liên quan đến việc duy trì sự hiện diện ngoại giao Hoa Kỳ có hạn chế ở Đài Loan mà đã được đưa ra và bị từ chối trong thời chính quyền Ford. Đề nghị bị từ chối một lần nữa bởi ĐTB, người cho đó là một bước lùi. Một năm sau, cuộc tranh luận nội bộ của Hoa Kỳ đã kết thúc khi Tổng thống Carter quyết định gán ưu tiên cao cho mối quan hệ với TQ. Áp lực của Liên Xô ở Phi châu và Trung Đông đã thuyết phục tân Tổng thống quyết định nhanh chóng bình thường hóa với TQ, chẳng khác gì tương đương theo đuổi một liên minh chiến lược với TQ. Ngày 17 Tháng 5, 1978, Carter gửi Cố vấn An ninh Quốc gia, Zbigniew Brzezinski sang Bắc Kinh với lời dặn dò:
... Ông nên nhấn mạnh rằng tôi thấy Liên Xô chủ yếu có một mối quan hệ cạnh tranh với Hoa Kỳ, mặc dù cũng có một số khía cạnh hợp tác ... Nói một cách vắn tắt nhất, mối quan tâm của tôi là sự kết hợp của sức mạnh quân sự ngày càng tăng với thiển cận chính trị của Liên Xô, cộng với tham vọng quyền lực lớn, có thể xui khiến Liên Xô khai thác hỗn loạn địa phương (đặc biệt là trong thế giới thứ ba) và đe dọa các quốc gia thân hữu của chúng ta để theo đuổi lợi thế chính trị và cuối cùng ngay cả ưu thế chính trị.
Brzezinski cũng được ủy quyền để tái khẳng định năm nguyên tắc mà Nixon đưa ra với CÂL vào năm 1972. Từng là một người ủng hộ mạnh mẽ hợp tác chiến lược với TQ, Brzezinski thi hành nhiệm vụ của mình với sự nhiệt tình và tài năng. Khi ông viếng thăm Bắc Kinh vào tháng 5 năm 1978 trong việc theo đuổi bình thường hóa mối quan hệ, Brzezinski nhận thấy khán giả chăm chú lắng nghe. ĐTB sẵn sàng tiến hành bình thường hoá để Washington gia nhập một cách vững chắc hơn vào liên minh để chống lại sự gia tăng Liên Xô ở mọi nơi trên thế giới bằng những gì ông gọi là "công việc thực sự, vững chắc, đơn giản."
Các nhà lãnh đạo TQ đã biết rõ về sự nguy hiểm chiến lược xung quanh; nhưng họ trình bày phân tích của họ như là một viễn cảnh tổng quát về tình trạng thế giới hơn là mối quan tâm quốc gia. "Tình trạng hỗn loạn dưới trời", "đường chân trời", "Tam thế giới": tất cả đều đại diện lý thuyết quan hệ quốc tế tổng quát chứ không phải nhận thức quốc gia cá biệt.
Phân tích tình hình quốc tế của Ngoại trưởng Huang Hua thể hiện sự tự tin đáng kể. Dù gì đi nữa, thay vì tỏ ra là một người tranh đấu cho một tình huống có thể nói là rất khó khăn cho TQ, Huang có phong cách của một giáo viên Nho giáo, giảng dạy về làm thế nào để thi hành chính sách ngoại giao toàn diện. Ông mở đầu bằng một nhận xét chung về các "mâu thuẫn" giữa hai siêu cường, kết quả vô vọng của cuộc đàm phán với Liên Xô, và cuộc thế chiến không thể tránh khỏi như sau:
... Liên Xô là nguồn nguy hiểm nhất cho chiến tranh. Tổng Thống của ông nói rằng Liên Xô đang đối mặt với nhiều khó khăn. Điều đó đúng. Phấn đấu cho quyền bá chủ thế giới là mục tiêu chiến lược cố định của xã hội chủ nghĩa Xô Viết đế quốc. Mặc dù có thể phải chịu rất nhiều thất bại, họ sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng...
Huang cho thấy mối quan tâm mà nó cũng làm nhiều người Hoa Kỳ chuyên về chiến lược lo lắng, đặc biệt là những người cố gắng gắn liền vũ khí hạt nhân với cách suy nghĩ truyền thống về chiến lược. Phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân sẽ tạo một khoảng cách giữa các mối đe dọa ngăn chặn và sự mong muốn để thi hành chúng: "Nếu cho rằng Liên Xô sẽ không dám sử dụng vũ khí quy ước vì sợ Tây phương tấn công bằng nguyên tử thì đúng là điều mơ tưởng. Đặt quan điểm chiến lược trên lối suy nghĩ kiểu này không những nguy hiểm mà còn không đáng tin cậy."
Ở Trung Đông, nơi mà được xem như "sườn của Âu châu" và "nguồn năng lượng của cuộc chiến tương lai", Hoa Kỳ đã thất bại trong việc chặn đứng các bước tiến của Liên Xô. Họ đã phát biểu một tuyên bố chung với Liên Xô về Trung Đông (mời các quốc gia khu vực tham dự hội nghị để cứu xét viễn cảnh cho một giải pháp Palestine toàn diện), "vì vậy mở rộng cửa cho Liên Xô tiếp tục xâm nhập vào Trung Đông." Washington bỏ rơi Tổng thống Anwar Sadat của Ai Cập, người có "hành động táo bạo", "tạo ra một tình hình bất lợi cho Liên Xô" trong một vị trí nguy hiểm và để cho Liên Xô "nắm cơ hội nhằm chia rẽ trầm trọng giữa các quốc gia Ả Rập."
Huang tổng kết tình hình bằng cách dùng câu tục ngữ của TQ, ông nói: "xoa dịu Moscow giống như lắp đôi cánh cho con hổ để nó tung hoành thêm." Nhưng một chính sách phối hợp áp lực sẽ thắng bởi vì Liên bang Xô Viết chỉ là "bề ngoài mạnh mẽ nhưng bên trong yếu. Họ bắt nạt kẻ yếu và sợ kẻ mạnh."
Tất cả điều này được dùng cho bối cảnh Đông Dương. Huang nói đến "vấn đề quyền bá chủ khu vực." Tất nhiên Hoa Kỳ đã đi qua con đường này mười năm trước đó. Việt Nam có mục đích thống trị Cam Bốt và Lào để thiết lập một Liên Hiệp Đông Dương và "nằm đằng sau là Liên bang Xô viết." Hà Nội đã đạt được một vị trí chủ chốt ở Lào, họ đóng quân ở đó và duy trì "cố vấn trong mỗi bộ phận và ở mọi cấp độ tại Lào." Nhưng Hà Nội gặp kháng cự ở Cam Bốt, họ chống lại tham vọng của Việt Nam trong khu vực. Căng thẳng Việt Nam-Cam Bốt tiêu biểu "không chỉ đơn thuần là một số vụ đụng độ lẻ tẻ dọc theo biên giới", nhưng là một cuộc xung đột lớn "có thể kéo dài trong một thời gian dài." Trừ khi Hà Nội từ bỏ mục tiêu thống trị Đông Dương, "vấn đề đó sẽ không được giải quyết trong một thời gian ngắn."
ĐTB phê bình tiếp theo Huang Hua trong cùng ngày. Ông cảnh báo Brzezinski rằng nhượng bộ và thỏa thuận chưa bao giờ kiềm chế được Liên Xô. Mười lăm năm hiệp định kiểm soát vũ khí đã để cho Liên Xô đạt được chiến lược ngang hàng với Hoa Kỳ. Giao thương với Liên Xô có nghĩa là "Hoa Kỳ đang giúp Liên Xô vượt qua những nhược điểm của họ." ĐTB đưa ra một đánh giá chế nhạo phản ứng của Hoa Kỳ đối với chủ nghĩa phiêu lưu của Liên Xô trong Thế giới Thứ ba và khiển trách Washington đang cố gắng "chiều lòng" Moscow như sau:
... Các phát ngôn viên của ông liên tục biện minh và xin lỗi cho những hành động của Liên Xô. Đôi khi họ tuyên bố không có dấu hiệu để chứng minh rằng có sự can thiệp của Liên Xô và Cuba trong trường hợp của Zaire hoặc Angola. Nói như vậy không có ích gì hết. Nói thẳng thắn với ông, bất cứ khi nào các ông sắp sửa kết thúc một thỏa thuận với Liên Xô thì y như đó là sản phẩm nhân nhượng từ bên Hoa Kỳ để làm bên Liên Xô vui lòng.
Thật là một điễn xuất tài tình. TQ, một quốc gia, mục tiêu chủ yếu của Liên Xô, đề nghị một hành động chung như là một nghĩa vụ trừu tượng, không phải là một cuộc mặc cả giữa các quốc gia, càng không phải là mộ lời yêu cầu. Như phân tích của họ đã chứng minh, tại thời điểm đại nguy cho quốc gia, TQ vẫn đóng vai trò như một giảng viên về chiến lược chứ không phải là một quốc gia nghe theo quy định của Hoa Kỳ một cách thụ động như các đồng minh Âu châu của họ thường làm.
Những chủ đề tranh luận chính ở Hoa Kỳ như luật pháp quốc tế, giải pháp đa phương, đồng thuận đa số đều vắng mặt trong những phân tích của TQ, ngoại trừ khi chúng được dùng như các công cụ thiết thực cho một mục tiêu được định trước. Và như ĐTB cho Brzezinski biết, mục tiêu đó là "đối phó với gấu Bắc cực và chỉ có thế."
Nhưng đối với người Hoa Kỳ trong giá trị cơ bản xã hội của họ, có một giới hạn cho cái gọi là cách tiếp cận thực tế. Và để quân Khmer Đỏ giết người cai quản Cam Bốt sẽ đại diện cho giới hạn đó. Không Tổng thống Hoa Kỳ nào có thể đối đãi Khmer Đỏ như là một viên sỏi trong bàn cờ chiến lược wei. Hành vi diệt chủng của họ như đuổi dân thành phố Nam Vang vào rừng sâu nước độc, giết hàng loạt thường dân được phân loại theo giai cấp không thể chỉ đơn giản được làm ngơ (mặc dù như chúng ta sẽ thấy cứu cánh đôi khi biện minh cho phương tiện.)
Hoa Quốc Phong, vẫn là Thủ tướng, thậm chí còn quyết liệt hơn trong một cuộc họp vào ngày hôm sau:
... Chúng ta cũng đã nói với rất nhiều bạn bè của chúng ta là hiểm nguy chiến tranh đến từ Liên Xô. Thế thì chúng nên đối phó với nó bằng cách nào? Điều đầu tiên là nên chuẩn bị... Nếu người ta chuẩn bị và một khi cuộc chiến xảy ra, người ta sẽ không ở trong một tình huống bất lợi. Điều thứ hai là bắt buộc cố gắng phá vỡ sự khai triển chiến lược xâm lăng của Liên Xô. Để đạt được quyền bá chủ trên thế giới, đầu tiên Liên Xô phải chiếm được những căn cứ không quân và hải quân trên khắp thế giới, vì vậy họ phải điều động chiến lược. Và chúng ta phải cố gắng làm xáo trộn kế hoạch động quân toàn cầu của họ.
Không một thành viên của Liên minh Đại Tây Dương nào đưa ra một cuộc kêu gọi toàn thể tương tự để hành động chung, thực ra là đánh phủ đầu, hoặc cho biết họ đã chuẩn bị để hành động một mình dựa trên sự ước đoán của họ.
Nói về hành động, các nhà lãnh đạo TQ đề nghị một loại hợp tác, trên nhiều phương diện, thân mật hơn và chắc chắn có nhiều rủi ro hơn so với Liên minh Đại Tây Dương. Họ cố gắng thi hành chiến lược chủ động ngăn chặn được mô tả trong những chương trước. Điểm đặc biệt của nó là ĐTB đề nghị một cơ cấu không chính thức hoặc cam kết không dài hạn. Một ước đoán chung sẽ làm động lực cho hành động chung, nhưng liên minh không chính thức không thể tồn tại nếu các ý kiến bắt đầu bất đồng - TQ nhất định xin được tự chủ ngay cả trong trường hợp cực kỳ nguy hiểm. Điều mà TQ khăng khăng xin hành động chung bất chấp chỉ trích gay gắt về các chính sách cụ thể của Hoa Kỳ chứng tỏ rằng hợp tác với Hoa Kỳ về an ninh được xem là điều bắt buộc.

Phần 3:

Bình thường hoá trở nên bước đầu tiên để hướng tới một chính sách toàn cầu chung. Từ chuyến thăm bí mật trong tháng 7 năm 1971, các điều kiện để bình thường hóa của TQ vẫn rõ ràng và không thay đổi, đó là rút tất cả các lực lượng Hoa Kỳ từ Đài Loan, kết thúc hiệp ước phòng thủ với Đài Loan, và chỉ thiết lập quan hệ ngoại giao với TQ qua chính phủ ở Bắc Kinh. Đó là một phần của cương vị TQ trong Thông báo Thượng Hải. Hai Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford đã đồng ý với các điều kiện này và Nixon cho biết ông sẽ thi hành chúng trong nhiệm kỳ thứ hai của ông. Cả Nixon lẫn Ford đã nhấn mạnh mối quan tâm của Hoa Kỳ về giải pháp hòa bình cho vấn đề Đài Loan, bao gồm cả việc tiếp tục một số hỗ trợ an ninh cho Đài Loan. Họ đã không thể chu toàn những lời hứa này vì kết quả của vụ Watergate.
Trong một hành động khác thường của chính sách ngoại giao phi đảng phái, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tổng thống Carter tái khẳng định tất cả các chủ trương liên quan đến Đài Loan mà Nixon đã hứa với CÂL vào tháng Hai năm 1972. Năm 1978, ông đề nghị một công thức cụ thể cho bình thường hoá để hai bên duy trì các nguyên tắc họ đã thành lập: khẳng định các nguyên tắc được chấp nhận bởi Nixon và Ford, lời tuyên bố của Hoa Kỳ để nhấn mạnh cam kết thay đổi trong hòa bình, TQ nhượng bộ Hoa Kỳ bán một số vũ khí cho Đài Loan. Carter đích thân thúc đẩy các ý tưởng này trong một cuộc hội thoại với đại sứ TQ Giang Trạch Dân, trong đó ông đe rằng nếu Hoa Kỳ không bán vũ khí, Đài Loan sẽ buộc phải phát triển vũ khí hạt nhân và Hoa Kỳ sẽ không có ảnh hưởng gì về kế hoạch hoặc hành động của Đài Loan.
Bình thường hoá cuối cùng cũng đến khi Carter ra thời hạn bằng cách mời ĐTB đến thăm Washington. ĐTB đồng ý với số vũ khí không xác định Hoa Kỳ bán cho Đài Loan và không chống lại lời tuyên bố của Hoa Kỳ rằng Washington mong đợi giải pháp cuối cùng cho vấn đề Đài Loan phải là giải pháp hoà bình, dù TQ đã từ bao lâu cho biết rằng họ không có bổn phận chính thức thi hành cam kết đó. Như ĐTB nhấn mạnh với Brzezinski, cương vị của Bắc Kinh vẫn là "giải phóng Đài Loan là chuyện nội bộ của TQ trong đó không một quốc gia nước ngoài nào có quyền xía vào."
Bình thường hoá có nghĩa rằng Đại sứ quán Hoa Kỳ sẽ dời từ Đài Bắc đến Bắc Kinh, một viên chức ngoại giao từ Bắc Kinh sẽ thay thế đại diện của Đài Bắc ở Washington. Để đối phó với tình huống này, qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan vào năm 1979, Quốc hội Hoa Kỳ bày tỏ mối quan tâm liên quan đến tương lai của đảo quốc như là một luật trói buộc Hoa Kỳ. Tất nhiên, đạo luật này không thể ràng buộc TQ.
Sự cân bằng giữa các liên hệ quan trọng giữa Hoa Kỳ và TQ cho thấy sự mơ hồ đôi khi là huyết mạch của ngành ngoại giao. Phần lớn bình thường hóa sở dĩ còn tồn tại bốn mươi năm qua là vì một loạt các sự mơ hồ. Nhưng nó không thể kéo dài như vậy vô thời hạn. Tài lèo lái quốc gia khôn ngoan của cả hai bên là điều cần thiết để thúc đẩy quá trình về phía trước.
Hành trình của Đặng Tiểu Bình
Khi ĐTB đi từ lời kêu gọi sang thi hành, ông thấy rằng TQ không thể chờ đợi quyết định của Hoa Kỳ một cách thụ động. Ông lập ra khuôn khổ chính trị mà ông cổ vũ ở bất cứ nơi nào có thể, đặc biệt là trong khu vực Đông Nam Á.
Trong khi Mao triệu tập các nguyên thủ nước ngoài ở dinh thự của mình như một hoàng đế, cách tiếp cận của ĐTB thì ngược lại - ông chu du trong khu vực Đông Nam Á, Hoa Kỳ, và Nhật Bản và quảng cáo thương hiệu ngoại giao nổi bật, thẳng thừng, và đôi khi ép buộc riêng của mình. Trong năm 1978 và 1979, ĐTB thực hiện một loạt các cuộc hành trình để thay đổi hình ảnh của TQ ở nước ngoài: từ một quốc gia tranh đấu cho cách mạng thành một nước nạn nhân của tham vọng địa chính trị Liên Xô và Việt Nam. TQ đã từng ở phía bên kia chiến tuyến trong chiến tranh Việt Nam. Tại Thái Lan và Malaysia, TQ trước đó đã khuyến khích cách mạng trong cộng đồng người TQ ở ngoại quốc và dân tộc thiểu số. Tất cả điều này bây giờ đều trở thành chuyện phụ để đối phó với mối hiểm nguy trước mắt.
Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time trong tháng 2 năm 1979, ĐTB quảng bá chủ trương chiến lược của TQ: "Nếu chúng ta thực sự muốn có thể chặn con gấu bắc cực, điều thực tế duy nhất cho chúng ta là đoàn kết. Nếu chúng ta chỉ phụ thuộc vào sức mạnh của Hoa Kỳ, điều đó không đủ. Nếu chúng ta chỉ phụ thuộc vào sức mạnh của Âu châu, nó cũng không đủ. Chúng tôi là một nước nghèo, không đáng kể, nhưng nếu chúng tôi đoàn kết, chúng tôi cưu mang được."
Trong suốt các chuyến đi, ĐTB nhấn mạnh tình trạng tương đối lạc hậu của TQ và mong muốn tiếp thu kỹ thuật và chuyên môn từ các quốc gia công nghiệp tiên tiến. Tuy nhiên, ông cho rằng một TQ thiếu phát triển không làm thay đổi sự quyết tâm của nó để chống lại bành trướng Liên Xô và Việt Nam, bằng vũ lực và một mình, nếu cần.
Đi du lịch ngoại quốc và liên tục đề cập đến sự nghèo đói của TQ, ĐTB tách xa hẳn với truyền thống trị nước của TQ. Rất ít vua chúa TQ đi ra nước ngoài. (Tất nhiên, vì trong quan niệm cổ xưa, Thiên triều cai trị tất cả dưới trời, về mặt kỹ thuật thì không có "nước ngoài" để đi.) ĐTB sẵn sàng công khai nhấn mạnh tình trạng lạc hậu của TQ và nhu cầu học hỏi từ những người khác, điều này đặc biệt đi ngược với cá tính lạnh lùng không thân thiện của các hoàng đế và triều đình TQ ngày xưa trong việc đối phó với người ngoại quốc. Chưa bao giờ có một vua nào công bố cho người nước ngoài là TQ cần hàng ngoại. Triều đình nhà Thanh chấp nhận những phát minh từ nước ngoài với số lượng hạn chế (như trong thái độ cởi mở của họ đối với các nhà thiên văn học và toán học Dòng Tên), nhưng luôn luôn nhấn mạnh rằng trao đổi thương mại với nước ngoài là một biểu hiện thiện chí của TQ chứ không phải là một điều cần thiết cho TQ. Mao cũng đã nhấn mạnh tự chủ, ngay cả phải trả giá với sự nghèo khổ và tự cô lập.
ĐTB bắt đầu các chuyến đi của mình ở Nhật Bản nhân dịp phê chuẩn hiệp ước bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và TQ đã được thương thuyết trước đó. Không những chỉ bình thường hoá, chủ trương chiến lược của ĐTB là làm hòa để Nhật Bản có thể giúp cô lập Liên Xô và Việt Nam.
Trong mục đích này, ĐTB sẵn sàng khép kín gần một nửa một thế kỷ đau thương mà Nhật Bản đã gây ra cho TQ. ĐTB biểu lộ sung sướng qua lời tuyên bố "Trái tim tôi tràn đầy niềm vui," và ôm chầm đối tác Nhật Bản, một cử chỉ mà nước chủ có thể chưa bao giờ thấy trong chính xã hội của họ, ngay cả trong TQ. ĐTB không cần cố gắng che dấu sự tụt hậu kinh tế của TQ: "Nếu có một khuôn mặt xấu xí, giả vờ đẹp trai không có lợi ích gì." Khi yêu cầu ký vào quyển lưu bút du khách, ông ca ngợi thành tích Nhật Bản chưa từng thấy: "Chúng tôi học hỏi từ dân Nhật Bản và kính phục một dân tộc vĩ nhân, cần mẫn, dũng cảm và thông minh."
Trong tháng 11 năm 1978, ĐTB viếng thăm khu vực Đông Nam Á, ông đến Malaysia, Singapore, và Thái Lan. Ông gọi Việt Nam là "Cuba của phương Đông" và nói về hiệp ước Xô-Việt Nam vừa được ký kết như là một mối đe dọa cho hoà bình thế giới. Tại Thái Lan vào ngày 8 Tháng 11 năm 1978, ĐTB nhấn mạnh rằng "an ninh và hòa bình ở Á châu, Thái Bình Dương và cả thế giới đang bị đe dọa" bởi hiệp ước Xô-Việt Nam như sau: "Hiệp ước này không chỉ một mình nhằm chống TQ ... Nó là một âm mưu trên toàn thế giới rất quan trọng của Liên Xô. Người ta có thể tin rằng chủ đích của hiệp ước là bao vây TQ. Tôi đã nói với các nước bạn bè rằng TQ không sợ bị bao vây. Hiệp ước đó có một ý nghĩa rất quan trọng đối với Á châu và Thái Bình Dương. Nó đe dọa an ninh và hòa bình của Á châu, Thái Bình Dương và toàn thế giới."
Trong chuyến thăm Singapore, ĐTB dường như gặp một người tri kỷ trong Thủ tướng Lý Quang Diệu (LQD) tài ba và ông thoáng thấy một hình ảnh có thể của TQ trong tương lai: một xã hội đa số là dân giàu có dưới một mô hình mà ĐTB về sau miêu tả một cách say mê là "quản lý nghiêm ngặt" và "trật tự công cộng tốt." Vào thời điểm đó, TQ vẫn còn nghèo, và riêng cái "trật tự công cộng" của họ hầu như tí nữa thì bị Cách mạng Văn hóa khai tử. LQD kể lại một cuộc trao đổi đáng ghi nhớ:
... Ông ta (ĐTB) mời tôi đến thăm TQ một lần nữa. Tôi nói tôi sẽ đi sau khi TQ phục hồi từ cuộc Cách mạng Văn hóa. Ông ta cho biết điều đó sẽ còn phải mất một thời gian dài. Tôi nói chữa rằng TQ sẽ không có vấn đề về thăng tiến và sẽ thành công nhiều hơn so với Singapore bởi vì dân Singapore là con cháu của nông dân mù chữ, vô sản từ Phúc Kiến và Quảng Đông trong khi họ là con cháu của các học giả, nhà quan và văn nhân, những người đã ở lại. ĐTB im lặng không nói gì ...
LQD ca ngợi tính thực dụng và sẵn sàng học hỏi kinh nghiệm của ĐTB. LQD cũng lợi dụng cơ hội để bày tỏ một số quan tâm của khu vực Đông Nam Á mà chính phủ và ngoại giao TQ khó có thể nhận ra:
... TQ muốn các nước Đông Nam Á đoàn kết với họ để cô lập "gấu Nga", nhưng thực tế là các quốc gia láng giềng của chúng tôi muốn chúng tôi đoàn kết và cô lập "rồng TQ." Chẳng có "Nga kiều" nào trong khu vực Đông Nam Á cầm đầu nổi loạn cộng sản dưới sự hỗ trợ của Liên Xô, nhưng lại có "Hoa kiều" được khuyến khích và hỗ trợ bởi Đảng Cộng sản và chính phủ TQ để đe dọa Thái Lan, Malaysia, Philippines, và Indonesia ở một mức độ ít hơn. Ngoài ra, TQ đã công khai thắt chặt mối quan hệ đặc biệt với Hoa kiều vì tình huyết thống và trực tiếp kêu gọi lòng yêu nước của họ, qua mặt nguyên thủ của các quốc gia mà những Hoa kiều này là công dân ... Tôi đề nghị thảo luận làm thế nào để giải quyết vấn đề này.
LQD nói đúng trong trường hợp này. Trừ Singapore, các quốc gia Đông Nam Á hành xử rất thận trọng trong việc đối đầu với Liên Xô hoặc Việt Nam. Tuy nhiên, ĐTB đã đạt được những mục tiêu cơ bản của ông ta: những lời tuyên bố công khai của ông được xem như là điềm báo trước của nỗ lực TQ để khắc phục tình hình. Và thế nào những lời tuyên bố này cũng được chú ý bởi Hoa Kỳ, một quốc gia nòng cốt cho âm mưu của ĐTB. Mưu đồ chiến lược của ĐTB cần một mối quan hệ với vững chắc hơn Hoa Kỳ.
ĐTB thăm Hoa Kỳ và Định nghĩa mới của Liên minh
Cuộc viếng thăm Hoa Kỳ của ĐTB được công bố để ăn mừng bình thường hóa mối quan hệ giữa hai quốc gia và để khai trương một chiến lược chung mà, dựa theo Thông báo Thượng Hải, chủ yếu để đối phó với Liên Xô.
Nó cũng chứng tỏ một đặc điểm của ngoại giao TQ: tạo ra ấn tượng được các quốc gia hỗ trợ dù trên thực tế họ chưa đồng ý hoặc thậm chí chưa được yêu cầu đóng vai trò đó. Trò tiểu xảo này bắt đầu lúc khủng hoảng về các hòn đảo ngoài khơi TQ hai mươi năm trước đó. Mao bắt đầu pháo kích hai đảo Quemoy và Matsu vào năm 1958, ba tuần sau chuyến thăm căng thẳng của Khrushchev đến Bắc Kinh. Bắc Kinh tạo ra ấn tượng rằng Moscow đã đồng ý trước cho họ hành động, mặc dù không phải là như vậy. Eisenhower đã đi quá trớn để buộc tội Khrushchev giúp kích động cuộc khủng hoảng.
Dùng cùng chiến thuật, trước khi đánh nhau với Việt Nam, ĐTB làm một chuyến thăm cao cấp tới Hoa Kỳ. Cũng như trong trường hợp Liên Xô, TQ không yêu cầu hỗ trợ cho hành động quân sự sắp đến của họ. Dường như Khrushchev không được thông báo về cuộc pháo kích vào năm 1958 và ông ta phẫn nộ vì sợ phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh hạt nhân với Hoa Kỳ; ngược lại, Washington được thông báo trước về cuộc xâm lược năm 1979 sau khi ĐTB đến Hoa Kỳ nhưng họ không ra mặt ủng hộ và hạn chế vai trò của Hoa Kỳ trong việc chia sẻ tin tình báo và phối hợp ngoại giao. Trong cả hai trường hợp, Bắc Kinh đã thành công trong việc tạo ra ấn tượng rằng hành động của họ được một siêu cường cho phép, do đó làm siêu cường kia không dám can thiệp. Trong chiến lược tinh tế và táo bạo đó, Liên Xô vào năm 1958 đã hoàn toàn bất lực để ngăn chặn cuộc pháo kích của TQ trên các hải đảo; về Việt Nam, họ chẳng làm gì được ngoài ngồi đoán mò những gì đã được thoả thuận trong thời gian ĐTB thăm viếng Hoa Kỳ, và từ quan điểm đó, họ phải giả sử đó là những thoả thuận thậm tệ nhất cho họ.
Trong ý nghĩa đó, chuyến thăm của ĐTB đến Hoa Kỳ là một loại chơi bóng với hình, một trong những mục đích là để đe dọa Liên Xô. Chuyến du lịch kéo dài một tuần của ĐTB ở Hoa Kỳ một phần là hội nghị thượng đỉnh ngoại giao, phần kinh doanh, phần chiến dịch chính trị về quê, và phần chiến tranh tâm lý sửa soạn cho chiến tranh Việt Nam thứ ba. Chuyến đi bao gồm điểm dừng chân ở Washington, D.C., Atlanta, Houston, và Seattle, và tạo ra những cảnh không thể tưởng tượng dưới thời Mao. Tại một bữa yến tiệc trong Bạch Ốc vào ngày 29 tháng 1, nhà lãnh đạo "Trung Hoa Đỏ" ăn tối với chủ của các tập đoàn Coca-Cola, PepsiCo, và General Motors. Trong buổi dạ vũ tại Trung tâm Kennedy, Phó Thủ tướng nhỏ bé bắt tay với các đội viên của đội bóng rổ Harlem Globetrotters. ĐTB đội mũ cao bồi và đi xe ngựa biểu diễn trước đám đông trong một hội chợ cưỡi bò và tiệc thịt nướng ở Simonton, Texas.
Trong suốt chuyến thăm, ĐTB nhấn mạnh nhu cầu tiếp thu công nghệ nước ngoài và phát triển kinh tế của TQ. Ông yêu cầu đi thăm các cơ sở sản xuất và công nghệ, bao gồm một nhà máy ráp ô tô của Ford tại Hapeville, Georgia, Công ty Công cụ Hughes ở Houston (nơi ĐTB xem xét mũi khoan dùng trong thăm dò dầu khí ngoài khơi); và nhà máy Boeing ở ngoại ô Seattle. Khi ông đến Houston, ĐTB thừa nhận lòng mong muốn được "tìm hiểu về kinh nghiệm tiên tiến trong ngành công nghiệp dầu khí và các lĩnh vực khác." ĐTB đưa ra một nhận định đầy hy vọng về mối quan hệ TQ-Hoa Kỳ qua lời thổ lộ sự mong ước của mình để "biết tất cả về cuộc sống của dân Hoa Kỳ" và "hấp thụ tất cả mọi thứ có lợi cho chúng tôi." Tại Trung tâm Không gian Johnson ở Houston, ĐTB không muốn dời phòng huấn luyện điều khiển máy bay con thoi không gian. Tin tức tường thuật cảnh đó như sau:
... ĐTB, người lợi dụng chuyến đi Hoa Kỳ để quảng bá sự thèm muốn công nghệ tiên tiến của TQ, hôm nay ngồi vào phòng huấn luyện điều khiển máy bay ở đây để tìm hiểu cảm giác ra sao khi đáp phi thuyền vũ trụ mới nhất của Hoa Kỳ từ độ cao 33 cây số. Phó Thủ tướng cao cấp của TQ [ĐTB] dường như bị thôi miên bởi cảm giác đó đến độ ông đã thử hạ cánh lần thứ hai và thậm chí sau đó vẫn chưa muốn rời phòng huấn luyện.
Những cảnh này khác xa với thế giới của thời Hoàng đế nhà Thanh làm bộ thờ ơ trước các tặng phẩm của Macartney với những lời hứa giao thương hoặc thái độ nhất định khăng khăng về kinh tế bế quan tỏa cảng của Mao. Trong một cuộc họp với Tổng thống Carter vào ngày 29 tháng một, ĐTB giải thích chính sách Bốn Hiện Đại Hóa của TQ mà CÂL đề nghị trước dân chúng lần cuối cùng: hiện đại hóa các lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ, khoa học và kỹ thuật, và quốc phòng. Tất cả điều này đều là chuyện phụ so với mục đích chính của chuyến đi của ĐTB, đó là thành lập một liên minh trên thực tế giữa Hoa Kỳ và TQ. Ông tổng kết:
... Thưa Tổng thống, ông muốn biết bản phác hoạ của chiến lược của chúng tôi. Để thi hành chính sách Bốn Hiện Đại Hóa, chúng tôi cần một thời gian dài trong khung cảnh hòa bình. Nhưng ngay cả bây giờ, chúng tôi tin rằng Liên Xô sẽ khởi động một cuộc chiến tranh. Nhưng nếu chúng ta hành động chín chắn và đúng, chúng ta có thể đình trệ nó. TQ hy vọng trì hoãn cuộc chiến trong 22 năm. Dưới tiền đề đó, chúng tôi không khuyến cáo việc thành lập một liên minh chính thức, nhưng mỗi chúng ta nên hành động trên cơ sở quan điểm và phối hợp hoạt động của chúng ta và áp dụng các biện pháp cần thiết. Mục tiêu này có thể đạt được. Nếu những cố gắng của chúng ta không đi đến đâu, lúc đó tình hình sẽ trở nên càng vô nghĩa hơn.
Hành động như một đồng minh mà không cần thành lập một liên minh là tận cùng của thực tiễn. Nếu tất cả các nhà lãnh đạo đều là những chiến lược gia tài giỏi và biết suy nghĩ sâu xa và có hệ thống về chiến lược, họ sẽ đi đến kết luận tương tự. Cái lô gíc của sự phân tích của họ cũng sẽ giống nhau, đó là không cần thiết có liên minh.
Nhưng ngoài sự khác biệt của lịch sử và địa lý, ngay cả các nhà lãnh đạo trong một hoàn cảnh tương tự không nhất thiết phải đi đến kết luận giống hệt, nhất là khi bị căng thẳng. Phân tích phụ thuộc vào diễn giải; các ý kiến khác nhau vì chúng còn tùy vào những gì cấu tạo nên một sự kiện, thậm chí ý kiến còn khác nhau nhiều hơn khi xét về tầm quan trọng của nó. Do đó các quốc gia thành lập liên minh vì hoàn cảnh ngoại lai hoặc từ áp lực nội địa để tạo nên một công cụ chính thức để bảo vệ lợi ích chung trong phạm vi có thể. Nó còn tạo thêm một điều bắt buộc để cân nhắc lợi ích quốc gia. Nó cũng đưa ra một nghĩa vụ pháp lý để biện minh cho sự phòng thủ chung có thể được dùng đến khi có khủng hoảng. Cuối cùng, nếu các quốc gia thật lòng theo đuổi, liên minh sẽ làm giảm thiểu sự nguy hiểm của tính toán sai lầm của kẻ thù và do đó tạo thêm yếu tố có thể đoán được trong việc thi hành chính sách đối ngoại.
ĐTB và hầu hết các nhà lãnh đạo TQ coi liên minh chính thức là điều không cần thiết trong mối quan hệ Hoa Kỳ-TQ và nói chung, là điều dư thừa trong việc thực hiện các chính sách đối ngoại của họ. Họ sẵn sàng dựa vào sự thông đồng ngấm ngầm. Nhưng câu nói cuối cùng của ĐTB cũng có một hàm ý cảnh báo. Nếu không thể xác định hoặc thực hiện được các lợi ích song song, mối quan hệ sẽ trở nên "trống rỗng," điều đó có nghĩa là nó sẽ tàn lụi, và trong trường hợp đó, TQ có lẽ sẽ quay trở về chủ trương Khối Thứ Ba của Mao Trạch Đông, lúc đó vẫn còn là chính sách chính thức, để TQ lèo lái giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ.
Theo quan điểm của ĐTB, các lợi ích song song chính chúng sẽ thể hiện trong một thỏa thuận toàn cầu bán chính thức để ngăn chặn Liên Xô ở Á châu qua hợp tác chính trị/quân sự có mục tiêu đi đôi với NATO ở Âu châu. Hợp tác này có cấu trúc lỏng lẻo và phụ thuộc phần lớn vào mối quan hệ chính trị song phương TQ-Hoa Kỳ. Nó cũng dựa trên một học thuyết địa chính trị khác biệt. Trước hết là NATO tìm cách đoàn kết các quốc gia hội viên trong việc chống xâm lược Liên Xô thật sự. Họ cố tình tránh bất kỳ quan niệm đánh phủ đầu nào. Vì quan tâm đến việc tránh phải đối đầu ngoại giao, học thuyết chiến lược của NATO từ xưa đến nay toàn là phòng thủ.
Những gì ĐTB đề nghị chủ yếu là một chính sách đánh trước, một khía cạnh của học thuyết của TQ dùng thế công để ngăn ngừa. Liên Xô phải bị áp lực dọc theo ngoại vi và đặc biệt trong các vùng mà họ mới đây đã bành trướng sự hiện diện như Đông Nam Á và thậm chí cả Phi châu. Nếu cần thiết, TQ sẽ sẵn sàng khơi mào hành động quân sự để ngăn chặn mưu đồ Liên Xô, đặc biệt là ở Đông Nam Á.
ĐTB cảnh báo rằng Liên Xô sẽ không bao giờ bị ràng buộc bởi thỏa thuận, họ chỉ hiểu ngôn ngữ của ăn miếng trả miếng. Chính khách La Mã Marcus Porcius Cato Major nổi tiếng thường kết thúc tất cả các diễn văn của mình với một câu oang oang làm chữ ký "Carthago delenda est" ("Phải hủy diệt Carthage"). ĐTB cũng có lời kêu gọi đặc biệt riêng của ông ta, đó là "Phải chống lại Liên Xô". Ông luôn bao gồm trong tất cả các bài thuyết trình của mình lời khuyên dưới vài biến thể rằng bản chất không thay đổi của Moscow là "Chen vào bất cứ nơi nào có kẽ hở," và như ĐTB nói với Tổng thống Carter rằng "Bất cứ chỗ nào có ngón tay của Liên Xô thò vào là chúng ta phải chặt."

Phần 4:

Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Harold Brown đã đánh dấu bước tiến xa hơn cho hợp tác TQ-Hoa Kỳ mà chỉ một vài năm trước đó không ai có thể tưởng tượng nổi. ĐTB chào đón ông Brown: "Điều ông đến thăm chính nó có ý nghĩa lớn bởi vì ông là Bộ trưởng Quốc phòng."
Chương trình nghị sự chính là xác định mối quan hệ quân sự của Hoa Kỳ với TQ. Chính quyền của Tổng thống Carter đã kết luận rằng sự gia tăng khả năng công nghệ và quân sự của TQ là điều quan trọng cho cân bằng thế giới và an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Bộ trưởng Brown giải thích Washington đã "thấy sự khác biệt giữa Liên Xô và TQ," và sẵn sàng chuyển giao một số công nghệ quân sự cho TQ nhưng không cho Liên Xô. Hơn nữa, Hoa Kỳ sẵn sàng bán "thiết bị quân sự" cho TQ (như thiết bị theo dõi và các loại quân xa), nhưng không phải "vũ khí." Hơn nữa, họ sẽ không can thiệp vào quyết định của các đồng minh NATO bán vũ khí cho TQ. Như Tổng thống Carter đã giải thích trong lời dặn dò với Brzezinski:
... Hoa Kỳ không phản đối thái độ cởi mở hơn mà các đồng minh của chúng ta đang thực hiện trong vấn đề giao thương với TQ về lãnh vực công nghệ nhạy cảm. Chúng ta muốn một TQ mạnh và an toàn và chúng ta công nhận và tôn trọng ý muốn của các đồng minh này ...
Cuối cùng thì TQ cũng không thể cứu Khmer Đỏ hoặc buộc Hà Nội phải rút quân khỏi Cam Bốt trong cả mười năm; có lẽ vì thế mà Bắc Kinh đã giới hạn mục đích của cuộc chiến về các điều khoản hạn chế hơn nữa. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây tổn thất nặng nề cho Việt Nam. TQ dốc hết sự quyết tâm và tài năng vào vận động ngoại giao ở Đông Nam Á trước, trong khi và sau cuộc chiến để cô lập Hà Nội. TQ duy trì sự hiện diện đông đảo của quân đội dọc theo biên giới, giữ lại một số lãnh thổ tranh chấp, và tiếp tục giữ mối đe dọa cho Hà Nội một "bài học thứ hai." Trong những năm sau đó, Việt Nam đã buộc phải hỗ trợ lực lượng đáng kể dọc theo biên giới phía Bắc để phòng thủ. Như ĐTB đã nói với Mondale trong tháng 8 năm 1979:
... Với một quốc gia với kích thước như thế mà phải giữ một lực lượng thường trực hơn một triệu quân thì tìm đâu ra cho đủ dân lao động? Một lực lượng thường trực một triệu quân cần rất nhiều hỗ trợ hậu cần. Hiện nay họ phụ thuộc vào Liên Xô. Theo một số ước tính thì họ nhận được 2 triệu đô la một ngày từ Liên Xô, theo ước tính khác thì 2 triệu rưỡi ... Khó khăn sẽ gia tăng và gánh nặng trên vai Liên Xô này sẽ càng ngày càng nặng hơn. Mọi thứ sẽ trở nên khó khăn hơn. Sau một thời gian, Việt Nam sẽ nhận thức rằng không phải tất cả các van xin từ Liên Xô đều có thể được đáp ứng. Trong trường hợp đó, một tình thế mới có lẽ sẽ xuất hiện.
Trên thực tế, tình trạng đó đã xảy ra hơn một thập kỷ sau đó khi Liên Xô sụp đổ cùng với hỗ trợ tài chính của họ đã kéo theo sự sụt giảm quân đội Việt Nam đóng tại Cam Bốt. Cuối cùng, qua một thời gian khó khăn để chiều chuộng các quốc gia dân chủ, TQ đã gặt hái được một phần đáng kể của những mục tiêu chiến lược trong khu vực Đông Nam Á. ĐTB đã thành công trong mục đích cản trở âm mưu thống trị của Liên Xô trong khu vực Đông Nam Á và ở eo biển Malacca.
Chính quyền Carter đóng vai trò đi trên dây qua cách duy trì các cuộc đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược với Liên Xô trong khi vẫn đặt chính sách về Á châu của họ trên nhận thức rằng Moscow vẫn là kẻ thù chiến lược chính.
Kẻ thua cuối cùng trong cuộc xung đột là Liên bang Xô viết mà tham vọng toàn cầu của họ đã gây báo động trên toàn thế giới. Một đồng minh của Liên Xô bị tấn công bởi một kẻ thù của Liên Xô to mồm nhất với chiến lược rõ ràng nhất, một kẻ công khai kích động một liên minh ngăn chặn Moscow, tất cả xảy ra trong vòng một tháng sau khi liên minh tưong ứng phòng thủ Xô-Việt được ký kết. Nhìn lại, tính thụ động tương đối của Moscow trong Chiến tranh Việt Nam Thứ ba có thể được xem là triệu chứng đầu tiên của ngày tàn Liên Xô. Người ta tự hỏi liệu quyết định can thiệp vào Afghanistan của Liên Xô một năm sau đó đã được thúc đẩy một phần vì cố gắng bù đắp cho sự bất hiệu nhiệm của họ trong việc hỗ trợ Việt Nam chống TQ. Trong trường hợp nào đi nữa, tính toán sai lầm của Liên Xô trong cả hai trường hợp nằm trong việc họ không nhận ra tầm mức của sự tương quan giữa các thế lực toàn cầu đã chuyển sang chống họ. Chiến tranh Việt Nam Thứ ba do đó có thể được xem là một ví dụ khác trong đó TQ đã thành công trong việc đạt được các mục tiêu chiến lược dài hạn và quan trọng mà không cần có một hệ thống quân sự ngang hàng với các kẻ thù của họ. Mặc dù cứu giúp tàn dư của chế độ Khmer Đỏ khó có thể được xem như là một chiến thắng đạo đức, TQ đã đạt được các mục tiêu địa chính trị lớn hơn so với các mục tiêu của Liên Xô và Việt Nam, hai quốc gia có lính tráng tinh nhuệ hơn và được trang bị tối tân hơn lính TQ.
Bình tĩnh khi phải đối mặt với các lực lượng có thực chất cao hơn đã ăn sâu vào trong tư duy chiến lược của TQ như nó đã được thể hiện trong trường hợp tương tự với quyết định can thiệp vào Chiến tranh Triều Tiên. Cả hai quyết định đã nhắm vào điều mà Bắc Kinh coi là mối đe dọa đang thành hình từ một thế lực thù địch thiết lập căn cứ tại nhiều điểm dọc theo ngoại vi TQ. Trong cả hai trường hợp, Bắc Kinh tin rằng nếu để thế lực thù địch hoàn thành âm mưu của nó, TQ sẽ bị bao vây và do đó sẽ nằm trong tình trạng vĩnh viễn mong manh. Kẻ thù sẽ có một vị trí để khởi động cuộc chiến tại một thời điểm họ lựa chọn và khi biết về lợi thế này, họ sẽ hành động "không cần biết đúng hay sai" như Hoa Quốc Phong đã nói với Tổng thống Carter khi họ gặp nhau tại Tokyo. Vì vậy, một vấn đề tưởng chừng như có tính cách khu vực, như trong trường hợp thứ nhất khi Hoa Kỳ bị đẩy lui từ Bắc Hàn và trong trường hợp thứ hai khi Việt Nam chiếm đóng Cam Bốt, lại được xem như là "trọng tâm của cuộc đấu tranh thế giới."
Cả hai cuộc can thiệp đã đưa TQ chống lại thế lực mạnh hơn mà nó đe dọa cảm giác an ninh của họ. Tuy nhiên, mỗi cuộc can thiệp đã xảy ra trên địa hình và tại một thời điểm lựa chọn của Bắc Kinh. Theo Phó Thủ tướng Geng Biao nói với Brzezinski sau đó: "Sự viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam là một thành phần của chiến lược toàn cầu của họ. Nó không chỉ nhắm về Thái Lan mà còn Malaysia, Singapore, Indonesia, và eo biển Malacca. Nếu họ thành công, nó sẽ là một đòn chí tử cho ASEAN và cũng sẽ ngăn chận các tuyến liên lạc cho Nhật Bản và Hoa Kỳ. Chúng tôi cam kết làm một cái gì đó về điều này. Chúng tôi có thể không có khả năng đối phó với Liên Xô, nhưng chúng tôi có khả năng đối phó với Việt Nam."
Chuyện chiến tranh cũng không phải là chuyện vẻ vang. TQ đã đẩy quân vào những trận chiến vô cùng tốn kém và chịu thương vong trên một kích thước có thể nói là không thể chấp nhận được đối với thế giới Tây phương. Trong Chiến tranh TQ-Việt Nam, quân TQ dường như đã theo đuổi nhiệm vụ của họ với nhiều sai lầm, nó làm gia tăng đáng kể số thiệt hại về nhân mạng của lính TQ. Tuy nhiên, cả hai vụ can thiệp đã đạt được các mục tiêu chiến lược đáng chú ý. Tại hai thời điểm quan trọng trong Chiến tranh Lạnh, Bắc Kinh đã thành công áp dụng học thuyết tấn công ngăn chặn của họ. Ở Việt Nam, TQ đã thành công trong việc làm lộ các giới hạn của cam kết bảo vệ Hà Nội của Liên Xô, và quan trọng hơn hết, của tầm với chiến lược tổng thể của họ. TQ đã sẵn sàng lâm chiến với Liên Xô để chứng tỏ rằng họ không để yên Liên Xô đe dọa họ ở miệt phía nam .
Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu đã tổng hợp kết quả cuối cùng của cuộc chiến như sau "Báo chí Tây phương cho các hành động trừng phạt của TQ là một thất bại. Nhưng tôi tin rằng nó đã thay đổi lịch sử của khu vực Đông Á."
Hết

Không có nhận xét nào: