Các tàu khu trục của Hải quân Nhật Bản đang ở thăm Philippines |
Lâu nay Trung Quốc vẫn giao giảng rằng các nước khu vực cũng như thế giới chẳng việc gì phải sợ sự nổi lên nhanh chóng của họ như một đối thủ ngoại giao, quân sự và kinh tế.
Nhưng theo các nhà phân tích, những gì Bắc Kinh đang làm lại cho thấy điều ngược lại, đặc biệt tại Biển Đông. Và để đối phó, các nước trong khu vực đã làm gì?
Mặc dù chính sách hiện nay của Bắc Kinh dường như muốn thể hiện là chính sách sức mạnh “mềm”, nhưng nhiều nước vẫn coi đó là chính sách sức mạnh “cứng” của chủ nghĩa đế quốc. Ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy các nước, nhất là các nước láng giềng của Trung Quốc, không hoàn toàn tin tưởng ý đồ nhân đạo như Bắc Kinh tuyên bố. Các nước đã và đang áp dụng nhiều biện pháp tự vệ để đề phòng chủ nghĩa đế quốc “mềm” của Trung Quốc trở nên hung hãn hơn hoặc trở thành “sức mạnh cứng”. Thế giới có thể thấy rõ nhiều bằng chứng về sức mạnh chính trị và kinh tế ngày càng lớn của Bắc Kinh ở tất cả các lục địa, nhưng điều đó thể hiện rõ nét nhất khắp khu vực Đông và Nam Á.
Các giải guyết các bất đồng của Trung Quốc với Ấn Độ, Philippines và Nhật Bản thời gian qua đã cho thấy rõ điều này.
Bắc Kinh gần như chưa bao giờ thỏa hiệp trong bất đồng biên giới với Ấn Độ, một chính sách dẫn đến cuộc xung đột vũ trang giữa hai nước năm 1962. Một sự kiện nhỏ nhưng quan trọng cũng xảy ra tháng 1/2011, khi Chính phủ Ấn Độ phản đối Chính phủ Trung Quốc cấp thị thực riêng cho các công dân Ấn Độ sinh sống ở bang Arunachal Pradesh mà lâu nay Trung Quốc vẫn tuyên bố chủ quyền. Bắc Kinh phớt lờ sự phản đối của New Delhi và tiếp tục tái khẳng định chủ quyền đối với khu vực bất đồng.
Quan điểm cứng rắn của Bắc Kinh đối với các bất đồng biên giới với Nhật Bản thậm chí trắng trợn hơn vào mùa Thu năm 2010. Tháng 9/2010, một tàu cá Trung Quốc có ý định đâm vào một tàu tuần dương của Nhật Bản ở gần các hòn đảo nhỏ được Nhật Bản gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Sau đó, Hải quân Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng và các thủy thủ của tàu cá Trung Quốc. Mặc dù đây chỉ là một sự kiện mang tính ngoại giao không đáng kể, nhưng vấn đề trở nên nghiêm trọng khi Chính phủ Trung Quốc phản ứng bằng cách kịch liệt tố cáo việc bắt giữ và kích động các cuộc biểu tình phản đối Nhật Bản ở nhiều thành phố Trung Quốc. Trước tình hình đó, Tokyo quyết định giảm bớt căng thẳng bằng cách trả tự do cho các thủy thủ, nhưng không đem lại kết quả. Bắc Kinh sử dụng lợi thế đó để đe dọa và yêu cầu Chính phủ Nhật Bản bồi thường tiền bạc và xin lỗi chính thức các công dân Trung Quốc. Cách hành xử kiểu “vừa ăn cướp vừa la làng” của Trung Quốc không phải là trường hợp duy nhất cảnh báo Nhật Bản mà cả các nước láng giềng Đông Á khác.
Trường hợp gần đây nhất là cách hành xử của Trung Quốc với Việt Nam và Philippines trong các vấn đề Biển Đông. Ngày 26/5/2011, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam tuyên bố ba tàu hải giám của Trung Quốc ngang nhiên xâm nhập lãnh hải của Việt Nam, phá hoại thiết bị và cản trở tàu khảo sát địa chấn Bình Minh 02 của Tập đoàn đang hoạt động tại vùng biển miền Trung chỉ cách mũi Đại Lãnh của tỉnh Phú Yên 120 hải lý. Đây là hành động vi phạm chủ quyền thuộc loại nghiêm trọng nhất mà Trung Quốc từng thực hiện tại vùng biển của Việt Nam tính tới tháng 5/2011, chưa kể vô vàn lần bắt tàu cá và ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Những tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines tại bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham trên Biển Đông hiện vẫn đang hết sức căng thẳng. Trong một động thái mới nhất, Bắc Kinh đã điều hàng trăm tàu cá và tàu chính phủ tới khu vực này mặc dù ở đó Philippines chỉ có hai tàu của chính phủ.
Vấn đề đáng lo ngại là quan điểm cứng rắn của Bắc Kinh liên quan đến các vùng biển tranh chấp. Các quan chức Trung Quốc hành động cứ như là tất cả mọi tính pháp lý chẳng ý nghĩa gì đối với các yêu cầu bành trướng lãnh thổ của họ. Thái độ ngang ngược đó cũng thể hiện rõ trong các tuyên bố chủ quyền quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông. Nếu xem xét kỹ, quan điểm của Bắc Kinh là: Trung Quốc có quyền kiểm soát các vùng biển rộng lớn hiện được coi là các vùng biển quốc tế.
Các tuyên bố hiện nay của Bắc Kinh đối với Biển Đông không những gây khó chịu cho các nước khác, đặc biệt là Philippines, mà cả cường quốc Hải quân lớn nhất thế giới là Mỹ. Washington coi việc bảo vệ các tuyến đường biển ở các vùng nước đó là vấn đề sống còn đối với lợi ích quốc gia của Mỹ. Ngoại trưởng Clinton nhấn mạnh nỗi lo ngại đó trong bài diễn văn đọc trước hội nghị ASEAN được tổ chức tháng 7/2011 và nhắc lại những nỗi lo ngại như vậy trong các tuyên bố chính thức gần đây hơn của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Các nước láng giềng của Trung Quốc và Mỹ đã áp dụng các biện pháp thận trọng trước việc Bắc Kinh sẵn sàng thể hiện sức mạnh quân sự. Rất có khả năng Seoul quyết định xóa bỏ hận thù về những bất đồng trong thời gian Nhật Bản thống trị Hàn Quốc những năm đầu thế kỷ 20, một phần được thúc đẩy bởi thái độ bắt nạt Nhật Bản của Trung Quốc. Trong những tuần xảy ra sự kiện bắt giữ tàu cá Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trở nên đoàn kết với nhau hơn và đạt được hàng loạt thỏa thuận hợp tác an ninh song phương. Dư luận cho rằng việc nối lại mối quan hệ hữu nghị giữa Nhật Bản và Hàn Quốc phản ánh nỗi lo ngại chung của hai nước đối với Triều Tiên. Nhân tố này có thể đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy mối quan hệ của hai nước, nhưng sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc cũng là một thực tế buộc Tokyo và Seoul liên kết an ninh với nhau.
Ngày 28/8, Nhật đã điều ba tàu khu trục của Hải quân Nhật Bản sang Philippines để tập trận như một hành động ủng hộ Manila trong vấn đề tranh chấp với Bắc Kinh.
Một dấu hiệu nữa cho thấy các nước láng giềng của Bắc Kinh không cảm thấy yên tâm trước sự cứng rắn của Trung Quốc là các nước đang áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng khả năng sức mạnh quân sự của họ. Thậm chí ở Đài Loan, Tổng thống đương nhiệm Mã Anh Cửu được tái cử ngày 14/1 cũng bày tỏ nguyện vọng mua thêm các loại vũ khí hiện đại của Mỹ. Trong chiến dịch vận động tranh cử tháng 1/2012, ông Mã khẳng định lợi ích của Đài Loan là tiếp tục duy trì quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc và tiếp tục các cuộc đối thoại giữa hai bờ eo biển, nhưng Đài Bắc phải tham gia đàm phán trên cơ sở sức mạnh chứ không thể yếu kém.
Các nước Đông Á khác cũng đang phát triển lực lượng vũ trang để đối trọng với sức mạnh quân sự và ngoại giao ngày càng tăng của Bắc Kinh. Thực tế, các kế hoạch mua sắm trang thiết bị quân sự của các nước đều tập trung vào các hệ thống vũ khí của không quân và hải quân. Hay nói chính xác, đây là các lực lượng thích hợp nhất để đối phó với mối đe dọa của Trung Quốc ở Đông Á và Đông Nam Á.
Tóm lại, cách hành xử hiện nay của Bắc Kinh không khác cách hành xử của các cường quốc đang nổi lên trong lịch sử: sử dụng ảnh hưởng lớn hơn đối với các nước láng giềng châu Á và bắt buộc các nước yếu hơn khuất phục và nhượng bộ. Đây là thực tế chẳng có gì ngạc nhiên trong bối cảnh địa chính trị hiện nay. Các nước láng giềng của Trung Quốc cũng thừa hiểu lịch sử và có thể tìm cách tránh né những bài học đau đớn. Điều này giải thích tại sao họ đang nỗ lực điều chỉnh để thích hợp với sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và áp dụng nhiều biện pháp chống lại sức mạnh quân sự của Bắc Kinh. Họ cũng đang làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy khả năng bảo vệ các lợi ích quốc gia không rơi vào tay Trung Quốc. Vì vậy, vấn đề quan trọng là Bắc Kinh sẽ phản ứng thế nào trước sự chống đối của các nước láng giềng và sẽ thể hiện chủ nghĩa đế quốc “mềm” ra sao trong thời gian tới.
Nguồn: tạp chí Á-Âu/petrotimes
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét