Lấy thí dụ Hiến pháp của nước Cộng Hòa Dân Chủ Congo
Ngày 17-4-2012, người phát
ngôn của Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến Pháp 1992, thứ trưởng bộ Tư pháp
Hoàng Thế Liên họp báo trả lời những câu hỏi liên quan đến Bản báo cáo tổng
kết thi hành Hiến Pháp 1992. Nội dung các câu hỏi xoay quanh ba vấn đề:
quyền sở hữu đất đai, quyền cơ bản của nhân dân, tổ chức quyền lực. Khó mà không
thấy là sự kiện Tiên Lãng kéo theo những vụ nhân dân đứng dậy đòi lại đất đai,
đã tạo trong nội bộ ĐCSVN 2 phái chống đối nhau về vấn đề có nên sửa đổi 2 điều
trong Hiến pháp: điều 17 “sở hữu toàn dân về đất đai”, điều 4 “Đảng Lãnh đạo”.
Hai điều này là nguồn gốc của những vụ cưỡng chế đất đai, lạm dụng quyền lực và
chà đạp nhân quyền.
Những câu trả lời của ông Hoàng Thế Liên cho thấy
điều 17 “Đất đai là sở hữu của toàn dân” và điều 4 “ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo”
vẫn được duy trì:
Về “Sở hữu đất đai”: “Phần lớn vẫn
kiến nghị giữ nguyên chế định sở hữu toàn dân về đất đai“. Ông Hoàng Thế
Liên cũng cho biết (trong Đảng) có ý kiến muốn thay “sở hữu toàn dân” bằng “sở
hữu đất đai thuộc về Nhà nước” và có đề xuất “nên đa dạng hóa sở hữu về đất
đai”.
Về Dân quyền, ông Hoàng Thế Liên chỉ biết than:
“Lâu nay chúng ta vẫn nói quyền a quyền b được qui định theo pháp luật…
cái đuôi này (pháp luật) gây khó khăn cho chúng ta”. “Chúng ta” là những
người tiến bộ trong Đảng muốn chỉ cắt cái đuôi “Pháp luật” mà cũng không
được!
Về Tổ chức quyền lực, ông Thứ
trưởng bộ Tư pháp cho biết: “có hai quan điểm : chính phủ là cơ quan chấp
hành, chính phủ là cơ quan thực hiện quyền Hành pháp”.
Những người tinh ý đều hiểu quan điểm coi chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành
mệnh lệnh của Đảng vẫn thắng thế và với ĐIều 4 “Đảng Lãnh đạo”, vẫn không có tam
quyền phân lập và cả ba quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp vẫn nằm dưới sự
khống chế của Đảng.
Mấy ngày sau (23-4-2012) ông Nguyễn Minh Tuấn trong
bài Khi Hiến pháp là công cụ bảo vệ dân quyền đăng trên Blog Nhà
nước và Pháp Luật thấy qua những câu trả lời của ông Hoàng Thế Liên “còn
một số vấn đề chưa thực sự sáng tỏ”, đề nghị:
1° Đa dạng hóa các
hình thức sở hữu đất đai:
Ông Nguyễn Minh Tuấn cũng nhận định
như mọi người là “không có sở hữu toàn dân chung chung trừu tượng, chủ sở hữu
luôn luôn gắn với cá nhân cụ thể”, nghĩa là quyền tư hữu là quyền của mỗi người
dân, không có tư hữu là không có dân quyền.
Nhưng đáng lẽ ông NMT chỉ cần
đòi hỏi quyền tư hữu phải được ghi nhận vô điều kiện trong Hiến pháp thì ông lại
muốn “đa dạng hóa các hình thức sở hữu đất đai”. Tôi không hiểu “các hình thức”
tự nó đã có nhiều dạng rồi thì còn “đa dạng hóa” thế nào được nữa! Có lẽ vì vậy
ông phải giảng thêm: “đa dạng hóa sở hữu có nghĩa rằng đối với từng mảnh đất, dù
là đất công cũng phải có chủ sở hữu cụ thể”. Thú thật tôi vẫn không hiểu ông
muốn nói gì ! Có lẽ ông muốn ám chỉ “đất công” cũng không thể nói chung chung
được để rút cục cũng chỉ là đất của Đảng.
Ông NMT lại còn đề nghị: “đề
xuất muốn thực sự thuyết phục cần có sự tham gia rộng rãi của người dân, đặc
biệt là những nhà khoa học có chuyên môn”. “Những nhà khoa học có chuyên môn” là
những người nào? Người dân “tham gia rộng rãi” vào những đề xuất nào?, bằng cách
nào? Trong khi Quốc hội còn nằm sờ sờ ra đó, sao không đưa những đề xuất ra
trước Quốc hội?
2° Những quyền cơ bản của người
dân:
Ông Nguyễn Minh Tuấn có can đảm khi dám nói thẳng: “cần
phải bỏ quy định quyền công dân không tách rời nghĩa vụ”. Nhưng khi ông đề
nghị: “thiết lập một cơ quan tài phán hiến pháp, giao cho thiết chế này quyền
giải thích hiến pháp”, thì ông lại vẫn muốn Đảng tiếp tục giải thích Hiến pháp
theo ý Đảng. Ông làm như Hiến pháp là một Thánh kinh và “nội hàm các quyền căn
bản” quá cao xa cần phải có một cơ quan “độc lập” giải thích mặc dù ông biết dư
“độc lập” dưới chế độ “Đảng Lãnh đạo” chỉ là một phiếm từ. Ông Nguyễn Minh Tuấn
đã viết nhiều về Hội đồng Bảo hiến và Tòa án Bảo hiến ở các nước có tam quyền
phân lập nên biết dư là những cơ chế này được lập ra chỉ có mục đích xử những vụ
vi phạm hiến pháp chứ không phải để giải thích Hiến pháp theo ý của những người
nắm quyền hành.
3° Phân quyền một cách khoa học
Ông Nguyễn Minh Tuấn dùng những từ ngữ quá tối nghĩa như “cần
phải áp dụng những hạt nhân hợp lý (?) của học thuyết (!) phân
quyền bởi lẽ không có phân quyền thì không có hiến pháp…” . Lẽ ra ông phải đòi
hỏi lập pháp và tư pháp độc lập với quyền hành pháp như trong mọi hiến pháp trên
thế giới, thì ông lại nói ngược lại: “quyền hành pháp phải độc lập với lập pháp
và tư pháp” mặc dù ông biết rõ quyền hành pháp là “Quyền hành Đảng” cùng nghĩa
với “Đảng Lãnh đạo”.
Ông lại còn có ý kiến độc đáo là quyền hành pháp
(executive) “cần được tách làm 2 bộ phận, đó là bộ phận lập chính
sách (Gubernatorial?) – gồm có thủ tướng và các chức năng hoạch định chính sách
với bộ phận hành chính (Administrative) – các cơ quan có nhiệm vụ thi hành
luật“. Tôi thú thật thấy câu nói quá lủng củng và tìm mỏi mắt không thấy
trong bản hiến pháp nước nào có sự phân quyền kỳ lạ như vậy. Tôi cũng không hiểu
vì sao ông lại muốn người ta hiểu “lập chính sách” có nghĩa là “gubernatorial”,
một tính từ chỉ có nghĩa là: thuộc về thống đốc!
Tôi thiết tưởng, là tác
giả nhiều bài viết về các thể chế chính trị và pháp quyền, ông Nguyễn Minh Tuấn
chỉ cần lấy lại định nghĩa và những tiêu chuẩn của một bản hiến pháp thông
thường để đòi hỏi phải gạch bỏ những điều nào trái với dân quyền trong Hiến pháp
1992.
Tôi xin nhắc lại thế nào là một bản hiến pháp coi trọng dân quyền
và lấy thí dụ bản Hiến pháp của nước Cộng hòa Dân chủ
Congo:
Hiến Pháp của một quốc gia dân chủ là Luật tối cao về
dân quyền của mỗi người công dân.
Hiến pháp của một quốc
gia dân chủ là văn bản có tính cách đạo Luật căn
bản, nguồn gốc của mọi đạo luật bảo đảm tự do và dân quyền của mỗi
người công dân. Tiêu chuẩn của hiến pháp là những điều về dân
quyền nằm trong hai bản Tuyên ngôn:
Tuyên ngôn Nhân
quyền và quyền Công dân 1789 (Déclaration des droits de l’homme et du
citoyen 1789)
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
(Déclaration universelle des Droits de l’homme) được Đại hội đồng Liên
Hiệp quốc họp ở Paris thông qua ngày 10-12-1948. Nguyên bản bằng tiếng Pháp và
được gợi ý từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và quyền Công dân 1789. Để tránh sự diễn
giảng kiểu Việt Nam “nói vậy mà không phải vậy”, điều khoản cuối cùng trong bản
Tuyên ngôn này nói rõ: “không được phép diễn giảng bất kỳ điều khoản nào
trong bản Tuyên ngôn này cho phép bất kỳ quốc gia nào, nhóm người hay cá nhân
nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi
nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong bản Tuyên ngôn
này”.
Để đảm bảo dân quyền và tự do cho mỗi người
công dân, Tuyên ngôn Nhân quyền 1789 đòi trong Hiến pháp phải có khoản
tách biệt ba quyền Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp. Thiếu khoản
này, phải coi như không có hiến pháp.
Quyền tư
hữu là quyền tự nhiên của mỗi con người : Điều 16 của bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Quyền công dân đặt quyền này ngang hàng với Tự do, An ninh và
chống áp bức. Điều 17 của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền khẳng định
“mỗi cá nhân riêng biệt hay trong cộng đồng đều có quyền tư hữu”. Tuyệt đại đa
số những bản hiến pháp trên thế giới đều ghi nhận quyền tư hữu là quyền tuyệt
đối của mỗi người công dân.
Cũng cần nhắc lại là trong chế độ Marxiste
đích thực (chưa bao giờ được thực hiện), quyền tư hữu của mỗi cá nhân vẫn được
tôn trọng, chỉ có tư hữu các phương tiện sản xuất là bị giới hạn và được chuyển
qua một tổ chức xã hội chứ không phải chuyển qua Nhà nước.
Định nghĩa
quốc tế về quyền tư hữu:
Quyền được sử dụng, được hưởng thụ và được
xếp đặt theo ý mình (như phá tán, chuyển nhượng, đổi chác, trao tặng) một tài
sản mà mình là chủ tuyệt đối và duy nhất, trong điều kiện luật định. Tài sản đó
có thể là một bất động sản hay một động sản. Chỉ có tư hữu cá
nhân. Sở hữu nhà nước hay sở hữu tập thể cũng chỉ là tư hữu cá nhân
được hiểu theo nghĩa rộng. Về mặt luật pháp mỗi khi có tranh tụng về sở hữu: nhà
nước, tập thể, hay cá nhân đều ngang quyền nhau với tư cách pháp nhân. Lẽ tất
nhiên là nhà nước, hay chính quyền địa phương, vì lợi ích công cộng có thể điều
đình với sở hữu chủ có quyền ưu tiên (droit de préemption) “mua lại ” một bất
động sản hay một động sản theo giá thị trường để thực hiện một quy hoạch nào như
mở rộng thành phố, làm đường xá… sau một cuộc điều tra “tiện và bất tiện” với sự
tham gia của các nhà chức trách sở tại, các cơ quan bảo tồn di tích, các tổ chức
bảo vệ môi trường v.v… và nếu có tranh tụng, phải có sự phân xử của của Tòa án
chứ không phải theo quyết định của Hành pháp kể cả người đứng đầu như Thủ tướng,
Tổng thống.
Hiến pháp của nước Cộng Hòa Dân chủ Congo:
Xứng đáng được coi là một bản Luật về Dân quyền
Cộng Hòa
Congo, luôn luôn bị chế nhạo là một “nước cộng hòa củ chuối”. Người Việt không
biết sao lại còn đặt ra thành ngữ “Tết Congo” mỗi khi muốn ám chỉ một chuyện
chẳng bao giờ được thực hiện. Cần nhắc lại Cộng hòa Dân chủ Congo là nước lớn
thứ nhì về diện tích (2.345.OOO Km2) và thứ tư về dân số (72 triệu người) ở Phi
Châu, với tài nguyên vô cùng phong phú và dân trí khá cao: Congo là nước đứng
đầu trong khối những nước nói tiếng Pháp về dân số. Tên “Cộng hòa Dân chủ” có từ
khi Congo giành được độc lập qua tay Bỉ năm 1960 dưới sự lãnh đạo của Lumumba,
một lãnh tụ cách mạng được đào tạo ở Liên Xô. Chỉ dưới thời Mobutu tên nước mới
bị Phi châu hóa là Zaire. Khi lãnh tụ Laurent Kabila, một người ủng hộ Lumumba
khi còn trẻ lên cầm quyền, tên Cộng hòa Dân chủ Congo được lấy lại và một bản
hiến pháp tạm thời được ban hành cho tới khi bản hiến pháp hiện nay được hoàn
thiện và có hiệu lực từ tháng Hai năm 2006, từ khi tổng thống Joseph Kabila lên
cầm quyền và sau phúc quyết của toàn dân.
Bản Hiến pháp được viết bằng
tiếng Pháp, ngôn ngữ chính của các nước Phi châu thuộc Pháp khi trước. Tiếng
Pháp là tiếng chính xác không có những từ ngữ mập mờ nên không cần phải lập một
“cơ quan giải thích” như đề nghị của ông Nguyễn Minh Tuấn cho Hiến pháp
1992.
Tôi xin trích dẫn dưới đây những điều chính trong bản Hiến pháp của
nước CHDC Congo để thử so sánh với điều 4 “Độc Đảng Lãnh đạo” và điều 17 “Sở hữu
toàn dân” trong Hiến Pháp 1992 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:
- Ngay trong phần mở đầu, Hiến pháp CHDC Congo đã khẳng định sự gắn
bó với bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Tất cả những điều
liên quan đến quyền người dân đều được sao lại nguyên si từ những điều về nhân
quyền trong bản Tuyên ngôn này và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và quyền Công dân
1789.
Ngoài những điều về nhân quyền được lấy lại trong 2 bản Tuyên ngôn,
hiến pháp của nước Cộng hòa Dân chủ Congo còn đi xa hơn nữa trong công việc thực
thi một cách hữu hiệu dân quyền, quyền tự do và loại bỏ hoàn toàn mọi hình thức
độc tài khi ghi thêm:
- Điều 6: Nước Cộng hòa Dân chủ Congo long trọng
công nhận đa nguyên chính trị. Người công dân nào cũng được quyền sáng
lập một đảng chính trị và gia nhập bất cứ đảng nào mình muốn.
Cấu tạo một thể chế độc đảng sẽ bị coi là mắc
tội phản quốc, không bao giờ được dung tha (une infraction
imprescriptible de haute trahison) và bị pháp luật trừng phạt.
- Điều 8 :
Nước CHDC Congo công nhận đối lập chính trị. Quyền được hiện
hữu, được hoạt động và quyền đấu tranh dân chủ đoạt chính quyền
là những quyền thiêng liêng.
- Điều 34 : Quyền tư hữu là thiêng liêng.
Nhà nước bảo đảm quyền tư hữu của mỗi cá nhân, của mỗi tập
thể.
- Chỉ có thể truất hữu vì lợi ích công cộng và được luật cho phép
sau khi đã trả trước tiền bồi thường một cách công
minh.
Không một ai có thể bị trưng thâu của cải của mình mà
không có quyết định của một chính quyền tư pháp có thẩm
quyền.
Kết luận
Phải đợi đến Tết Congo Hiến Pháp
nước CHXHCN Việt Nam mới có được một điều khoản về tự do, về dân quyền, tương
xứng với những điều khoản trong hiến pháp của cái nước Congo da đen
này.
© Phong Uyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét