Pages

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

CHẾ ĐỘ “CÔNG AN TRỊ” PHẢI DẸP BỎ THÌ VGCS MỚI CÓ TƯ CÁCH “ĐỐI THOẠI NHÂN QUYỀN”

Bình Luận Thời Sự ngày 13-11-2011 – Trích Diễn Đàn Paltalk VietnamExodus
Thời Chiến Tranh Lạnh, “thế giới chia làm hai phe”, chỉ thấy “phe” cộng sản chủ động “đánh”, và phe “tư bản đế quốc” bị động “chống đỡ”, vì bị cộng sản tuyên truyền lên án “vi phạm nhân quyền”. Trong chiến tranh Việt Nam 1965-1975, những đề tài “chuồng cọp Côn Sơn”, “thảm sát Mỹ Lai”, nhất là bức ảnh Tướng Loan “xử tử tại trận” một tên Việt Cộng trong vụ Tết Mậu Thân, thổi phồng tâm lý “phản chiến” ở Mỹ, buộc Mỹ phải rút quân với bất cứ giá nào, kể cả việc “phản bội đồng minh”, bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa. Đó là thứ “nhân quyền” được cộng sản dùng làm “khí giới” đánh Mỹ. Sau “bức màn sắt”, Lê-nin rồi Stalin dùng “công an trị” biến Liên Xô thành Gulag, nhân danh “nhân quyền xã hội chủ nghĩa” đoạt “nhân mạng” của chừng vài chục triệu người, coi như những người đó “hy sinh”, dù bị giết oan. Sau khi Liên Xô sụp đổ, người ta mới lên án chủ nghĩa cộng sản đồng nghĩa với “diệt chủng” – genocide. Hơn cả chủ nghĩa phát-xít, cộng sản cầm quyền nước nào cũng “cơ chế” ra một bộ máy công an khổng lồ, dùng làm “công cụ cai trị”. Nước cộng sản nào cũng có “đại học công an”, đào tạo ra các “tiến sĩ công an”, hưởng mọi ưu đãi, với lời thề “trung với đảng”. Ở nước cộng sản nào cũng thế, “đảng trị” đồng nghĩa với “công an trị”. Sau “bức màn tre”, chế độ “công an trị” Tàu có “bổ sung” một thứ “triết lý trị dân” mang màu sắc “đặc thù Trung Quốc”, đó là “công an nhân dân”. Từ thời Tần Thủy Hoàng, nước Tàu đã biết “dùng dân để trị dân”. Chế độ “hộ khẩu” được đặt ra, dùng “nơi ăn chốn ở” để kiểm soát dân. Chế độ “ngũ gia liên bảo” được đặt ra, cứ 5 gia đình thành một tập thể, chịu trách nhiệm liên đới mọi phương diện. Năm gia đình ấy chỉ được phép có một con dao, luân phiên dùng cho đời sống hàng ngày, để bảo đảm không ai có vũ khí chống lại “thiên tử”. Họ phải kiểm soát lẫn nhau, bảo đảm trung thành với chế độ. Chỉ một phần tử trong “ngũ gia” bị phát hiện có “tư tưởng phản động” mà không ai báo cáo kịp thời, tức thì toàn bộ “ngũ gia” bị “xử trảm”. Với thứ luật lệ “sắt máu” ấy, nước Tàu đã hình thành một thứ “triết lý trị dân bằng luật lệ khắt khe“. Với thể chế “công an nhân dân trị” này, Tần Thủy Hoàng đã tiêu điệt hết đối thủ, thống nhất nước Tàu. Nhưng vì quá tàn bạo, đế chế nhà Tần chỉ sống được có 15 năm. Hai mươi thế kỷ sau Tần Thủy Hoàng, Mao thắng nội chiến với Quốc Dân Đảng, tóm thâu luôn mấy nước Mông Cổ, Mãn Châu, Hồi Uighur, Tây Tạng, lập ra nước Cộng Hòa Nhân Dân Tàu, theo “chủ nghĩa dân chủ nhân dân” và triết lý cai trị của “Pháp Gia”, đặt tên là “pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.

Năm 1930, Bộ Thuộc Địa Đế Quốc Liên Xô (tên bên ngoài gọi là Quốc Tế Ba hay Đệ Tam Quốc Tế – Third International) cho ra đời Đảng Cộng Sản Đông Dương, dùng đảng này làm công cụ giành thuộc địa Đông Dương với thực dân Pháp. Năm 1940, đảng này được Quốc Dân Đảng Tàu và Tình Báo OSS Mỹ thuê làm gián điệp chống Nhật ở Bắc Kỳ. Năm 1945, Nhật thua trận. Đảng cộng sản Đông Dương theo chân Tàu QDĐ (và tình báo Mỹ) tiếp nhận Nhật đầu hàng, nhân dịp “cướp chính quyền”, nhân danh “Đồng Minh thắng trận” ép vua Bảo Đại thoái vị, nhường quyền cho Hồ, tung hô “cách mạng tháng tám thành công”. Bị bại lộ căn cước cộng sản, nền “độc lập” Hồ tuyên bố vội vàng sau đó (từ 19-8 đến 2-9, chỉ có 14 ngày, và Nam Bộ chưa “khởi nghĩa” xong; Saigon, trước 23-9-1945 vẫn còn chưa “cướp” được quyền), nhưng cái “độc lập” ấy không được nước nào công nhận, kể cả Liên Xô. Hồ phải giải tán đảng cộng sản, mời gọi các đảng cách mạng quốc gia tham gia, thành hình chính phủ liên hiệp quốc-cộng, dưới sự giám sát của thẩm quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Ngày 6-3-1946, Hồ ký Hiệp Định sơ bộ với Pháp. Cùng lúc, Pháp điều đình được Tàu nhường quyền tiếp thu Bắc vĩ tuyến 16 VN, đổi lấy tô giới Thượng Hải của Pháp. Ngày 19-5-1946, Hồ long trọng cờ xí rợp trời, sai Võ Nguyên Giáp xuống tận Hải Phòng đón quân Pháp lên bờ, rồi đi xe dẫn đầu đoàn quân cơ giới Pháp từ Hải Phòng lên Hà Nội. Bị cả nước chửi, Hồ bịa ra rằng ngày 19-5 là “sinh nhật“ của y; cờ xí là kỷ niệm sinh nhật ấy, không phải là “long trọng rước Pháp”. Biện bạch việc Giáp đi đón “giặc Pháp”, Hồ dùng một câu nói đầy “giai cấp tính nông dân” : “… thà “ngửi rắm Tây” còn hơn “ăn cứt Tàu”. Có ý nói : Tàu QDĐ không ủng hộ cộng sản; Tây “vào”, Tàu “về”, có lợi cho “đảng ta” hơn; dân VN ghét Tây, nên “đánh Tây dễ hơn đuổi Tàu”. Nam Bộ bất chấp việc “Hồ thỏa hiệp với giặc Pháp”, dù “tầm vông vạt nhọn” cũng liều chết đánh Pháp. Tự Vệ Thành Hải Phòng “tự phát đánh Pháp”. Tiếp theo, Tự Vệ Thành Hà Nội gặp Pháp đâu đánh đó, buộc Hồ phải tuyên bố “toàn quốc kháng chiến” ngày 19-12-1946 (không đánh thì Pháp cũng đánh, vì “thỏa hiệp” coi như đã hỏng). Hồ rút quân về Việt Bắc và suýt bị Pháp nhảy dủ bắt sống ở Bắc Kạn. Tự Vệ Thành Hà Nội trở thành đơn vị “Vệ Quốc Quân” lừng danh, với tên mới là “Trung Đoàn 12”, sau đổi thành “Bộ Đội Tây Tiến”, đưa sang mặt trận Lào, vì đảng cộng sàn, với “lập trường giai cấp”, không bao giờ tin cậy bộ đội này, gồm toàn là “thanh niên trí thức tư sản thành thị”. (Chưa kể cái tội làm hỏng thỏa hiệp giữa Hồ với Pháp, mà “đảng ta” không “bắt bẻ” được).
Năm 1949, Mao thắng nội chiến, tiến xuống biên giới Hoa-Việt, Hồ sai Võ Nguyên Giáp (cũng tên này 4 năm trước đi rước Tây) đem bộ đội qua biên giới giúp Tàu Cộng truy diệt tàn quân QDĐ, được “đảng bạn” ghi công. Năm 1950, nước Cộng Hòa Nhân Dân của Mao ra đời, lập tức cùng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ, hai bên “công nhận nhau”. Cái khẩu hiệu “không thơm” năm 1946 của Hồ, 4 năm sau đã “đột phá” thành ra thà ngửi rắm “đảng bạn” còn hơn ăn cứt Tây. Lịch sử đảng cộng sản vn là lịch sử “không bao giờ có mùi thơm”, vì nó hết “ăn cứt” nước này lại “ngửi rắm” nước kia. Nó bẩm sinh bán nước. Nó rước Tàu Cộng vào VN năm 1950, đem theo “chủ nghĩa dân chủ nhân dân”. Từ “tư duy” cho đến “cơ chế”, nhất nhất nó phải “nhân dân hóa” theo khuôn mẫu “pháp quyền” Tàu, bổ sung những hình thức “đấu tranh giai cấp” kiểu “Hồng Vệ Binh”. Nó huênh hoang “thắng Pháp” ở Điện Biên Phủ, nhưng không trả lời được câu hỏi : “Tại sao “thắng” mà chỉ “giải phóng” được có một nửa nước ? Tổng Bí Thư csvn Lê Duẩn, trong “khí thế cộng sản cao độ”, có lúc đã nói toạc ra rằng : “… chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.
Khi Liên Xô choảng nhau với Tàu năm 1968, VGCS phản Tàu, theo Liên Xô, nhưng cỗ máy cầm quyền vẫn “rập khuôn” theo mẫu “nhân dân Tàu”. Vẫn “hộ khẩu”. Vẫn “tổ dân phố”. Vẫn cái gì cũng “nhân dân”, từ trên xuống dưới. Đến khi Liên Xô sụp đổ, phải sang Tàu “trói mình chuộc tội phản chủ” thì mọi sự chúng càng phải “thuần hóa” theo khuôn “nhân dân” hơn trước. Hiến pháp 1946 có câu “của dân, do dân, vì dân” sao chép của Mỹ. Hiến Pháp 1992 (sau khi trở thành “láng giềng bốn tốt” của Tàu Cộng), câu trên phải “bổ sung” thành “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Cứ thế, “bổ sung” riết, Việt Nam “lột xác” thành “một bộ phận” của Tàu Cộng từ bao giờ, người dân VN không hề biết. Khi VN là một bộ phận của nước Tàu, thì ai “quản lý” Hoàng Sa, Trường Sa, Tây Nguyên … “cũng vậy thội”. Kẻ nào đặt vấn đề “chủ quyền quốc gia”, sẽ bị cả “đảng ta” lẫn “đảng bạn” đem ra “kiểm điểm”, cho là “có tinh thần dân tộc hẹp hòi”. Khi tên Nguyễn Chí Vịnh tuyên bố “không nhượng bộ chủ quyền Hoàng Sa vô nguyên tắc”, thâm ý của y là : “Theo nguyên tắc bên kia biên giới cũng là anh em, không có vấn đề chủ quyền thuộc về ai, thì ai quản lý cũng vậy thôi”.
Theo nguyên lý của “chủ nghĩa nhân dân” và “triết lý cai trị theo Pháp Gia” Tàu, cái gọi là “nhân quyền Phương Tây” không phải là “nhân quyền với đặc thù Trung Quốc”; Tàu và “phe” cộng sản dùng “nhân quyền Phương Tây” tuyên truyền đánh phá hậu phương các nước tư bản thì “có chính nghĩa”; ngược lại, Phương Tây đặt vấn đề “nhân quyền” ở các nước cộng sản là “áp đặt giá trị”, là “xen vào nội bộ nước khác”. Cả Tàu Cộng lẫn VGCS cố tình quên rẳng chúng là thành viên Liên Hiệp Quốc, với những ràng buộc của “mẫu số chung về giá trị”, còn gọi là “giá trị phổ quát” – universal values – qua vô số “Công Ước” mà chúng đã ký vào khi gia nhập.
Tàu Cộng đã được Mỹ và thế giới “tạm thời làm ngơ” nhưng chưa bỏ qua vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 2001, tàu bay do thám Mỹ đụng rớt phi cơ chiến đấu Tàu trên không phận đảo Hải Nam, tưởng đâu Mỹ/Tàu “sinh chuyện” đến nơi, theo lời cảnh báo “trước khi quá muộn” của hầu hết các trung tâm nghiên cứu chiến lược Mỹ. Vụ Tháp Đôi New York bị khủng bố quốc tế đánh sập ngày 11-9 năm đó đã giúp “đẩy mũi nhọn” đối phó của Mỹ sang Iraq và Afghanistan, thay vì Tàu Cộng. Tám năm sau, tạm rảnh tay nơi khác, dù chưa hoàn toàn phục hồi sau Đại Khủng Hoảng KTTC năm 2008, năm 2009 Mỹ đã “đặt vấn đề trách nhiệm” với Tàu Cộng, từ đó, từng bước đẩy lui ảnh hưởng Tàu trên khắp thế giới. Vụ tàu Impeccable của Mỹ bị Tàu bám sát, quấy nhiễu rồi phản kháng, chứng tỏ đôi bên đã chọn Biển Đông VN – mà Tàu gọi là Nam Hải – làm “điểm nóng” tranh chấp, từ đó, VGCS bị “vạ lây”, vì hàng ngũ “ta-bạn-thù” quốc tế trong vùng xoay chuyển. Bấy lâu “sao chép Tàu”, lẽo đẽo “theo voi Tàu, hít bã mía Mỹ”, VGCS từ “bao cấp” đột phá theo “đổi mới hay là chết” để “thoát chết”, trở thành “tư bản đỏ trong lòng xã hội đen”. Thế “đối đầu” Mỹ/Tàu đặt VGCS vào tình huống, lúc thì chúng gọi là “vô cùng phức tạp”, lúc lại hô hoán “vô cùng khẩn trương”. Tóm lại : “vô cùng bối rối”, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Được đúc khuôn trong “tư duy” xã hội chủ nghĩa, chỉ biết có “thế giới chia làm hai phe”, rồi “ta đứng vào phe các nước dân chủ tiến bộ” chống lại “thế lực thù địch Mỹ và đế quốc tư bản”, đơn giản chờ “chỉ đạo” từ “trên” (dĩ nhiên là Tàu). Bây giờ Mỹ “khui” và đặt vấn đề “trách nhiệm” cái “bản đồ lưỡi bò”; cụ thể : chủ quyền thuộc về ai ? Không thể trả lời kiểu “cũng vậy thôi” với Mỹ được. Nguy cơ của VGCS không phải đến từ phía Mỹ, mà đến từ quốc dân VN. Đầu năm nay, Wall Street Journal đã đưa ra revolting index – chỉ số nổi loạn – khắp thế giới, trong đó VN đứng hàng thứ 10, trên cả Tunisia lẫn Egypt. Bây giờ, với tội “bán nước bẩm sinh” bại lộ qua tranh chấp Biển Đông, bị toàn dân lên án, VGCS lo ưu tiên “đối phó sảng” trong nước; ngoại vận chỉ là “lấp liếm”. Chúng lạy van Tàu “nương tay”, tạm lờ vấn đề chủ quyền, giúp chúng “chạy tội” trước “nhân dân”. Chúng sang Mỹ “hội thảo lần thứ 16”, mong “thu hẹp khác biệt nhân quyền”, xin làm “đối tác chiến lược” để khỏi bị Tàu “bắt nạt”, nhưng Mỹ còn “chưa quyết”. Trong khi đó, cỗ máy “công an trị” của chúng mở hết công suất, đàn áp, bắt nóng bắt nguội, bắt cóc khắp nơi. Mẫu mực “côn đồ” của “Hồng Vệ Binh” Tảu được “sao chép” thành “quần chúng tự phát”. Quán tính của chúng là : “Chốt kỹ” ngoại vận; “thẳng tay” với dân. Vậy, đòi hỏi “thay đổi chính sách” chỉ là giải quyết trên “ngọn”. Giải quyết “tận gốc” phải là “thay đổi chế độ”. Ngoại vận không “quyết” được, Quốc Dân Việt sẽ “quyết”.

Không có nhận xét nào: