Pages

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Nhìn lại quá khứ, ngước về tương lai

http://www.vietnamexodus.info/vne/vneimages/news/dauto.jpgHành Khất

T/g gửi tới TTHN

Công cuộc Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) của csvn trong giai đoạn 1949 -1956 là một kinh nghiệm quý giá cho những ai chưa hiểu chế độ cộng sản. Dù vấn đề nầy đã quá xa xưa, nhưng dường như đa số thường dân Việt Nam (VN) không có nhận thức về những gì đã xảy ra trong quá khứ, vì csvn cố tình che giấu và xảo ngôn qua cách mà họ gọi là chính trị. Đây là một vấn đề về an sinh, luân lý, và đạo đức xã hội, mà chúng là nền tảng trong suốt lịch sử dựng nước của dân tộc VN, nhưng csvn đem cái chính trị ngoại lai của Tàu cộng, Nga cộng trộn lẫn trong đó và phá vỡ tất cả, tạo nên một hậu quả trầm trọng không ít cho đến hôm nay. Ngước nhìn về tương lai sẽ thấy gì, nếu chúng ta không dám nhìn lại quá khứ ?

Đã có rất nhiều bài viết về CCRĐ, từ phân tích, nhận định cho đến những bài phỏng vấn từ con cháu nạn nhân may mắn được sống sót, từ nhân chứng từng giữ vai trò lãnh đạo trong nhà cầm quyền cs, và bằng chứng sử liệu, thêm vào những hình ảnh của nhà báo Liên Xô. Qua bài viết nầy chỉ tóm lượt sơ qua về những sự kiện chính, để dành lại cho những nhận định thực trạng hôm nay, và tầm nhìn tương lai có thể đến.
A-Công Cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Miền Bắc 1949 – 1956
Có tất cả 5 giai đoạn (theo “Cuộc Cải Cách Ruộng Đất“, Sử Gia Trần Gia Phụng) :
1-Giai Đoạn Sơ Khởi : 14/07/1949 – 11/02/1950 (khoảng 6 tháng rưởi)
Khoảng giữa năm 1949, vì nhu cầu cung ứng cho quân đội mới thành lập không lâu, nên Việt Minh (VM) thực hiện CCRĐ một cách tương đối nhẹ nhàng, và ưu đải tá điền (nông dân) bằng cách tịch thu ruộng của các điền chủ Pháp, và những người Việt bị kết tội thân Pháp (“Việt gian”) đem phân chia “tạm thời” cho nông dân. Đồng thời qua Hội đồng Giảm tô, VM ấn định mức giảm tô (thuế mướn đất mà tá điền phải đóng cho điền chủ) từ 25% – 35% qua sắc lệnh 78/SL ngày 14/07/1949.
* Trong thời gian đầu của giai đoạn sơ khởi nầy, VM còn hoàn toàn hành động theo kế hoạch mình, chưa có bàn tay Bắc Kinh nhúng vào sai khiến, vì Mao Trạch Đông cũng mới vừa chiếm được lục địa Trung Hoa (1/10/1949). Ngày 15/1/1950, VM đánh điện cho Bắc Kinh yêu cầu sư trợ giúp (theo bbc.co.uk, “Cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam (1950-1952)“, 18/03/2004)
Tháng 2/1950, Hồ Chí Minh (HCM) qua Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa xin viện trợ. Stalin đã ra lệnh cho HCM phải thực hiện ngay hai việc : tái công khai đảng cộng sản và đẩy mạnh CCRĐ, và phải cử người sang Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) quan sát, học tập phương pháp CCRĐ đang tiến hành.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-1.jpg?w=300
Những ngày đầu của CCRĐ ở miền Bắc) (Nông dân sung sướng được làm chủ ruộng đất)
2-Giai Đoạn Thứ Hai : 12/02/1950 – 19/04/1953 (khoảng 3 năm 2 tháng)
Trong năm 1950, nhằm đẩy mạnh sản xuất vì sự thiếu hụt lương thực cho bộ đội, nên VM tổng động viên nguồn nhân lực (người), vật lực (gia súc, nông cụ), và tài lực (tiền bạc) qua sắc lệnh 20/SL ngày 12/02/1950. Và sắc lệnh 89/SL ngày 22/05/1950, xóa bỏ những hợp đồng vay nợ cho tá điền trước 1945, cũng là một ưu đải khác để họ có thể ra công cực lực, và dành dụm tiền bạc, gạo thóc nhằm hoàn toàn phục vụ cho VM. Những đất đai bị bỏ hoang đều được quốc hữu hóa và tận dụng, đem chia cho nông dân tạm thời làm chủ trong vòng 10 năm, qua sắc lệnh 90/SL ngày 22/05/1950; đồng thời bắt buột điền chủ không được bỏ ruộng hoang.
* Đây là giai đoạn kéo dài nhất và nhiều sắc lệnh được đưa ra. Ngày 17/4/1950, nhóm cố vấn Trung cộng (TC) gồm 79 người, và một số trợ lý được thành lập. Lương thực, và số lớn vũ khí (chiếm được của Trung Hoa Dân Quốc, Tưởng Giới Thạch, mà họ được Hoa Kỳ trợ cấp lúc trước) được chuyển vào miền Bắc trong khoảng tháng 4 đến tháng 9/1950. Vị tướng quân sự TC nổi danh Trần Canh cũng đã có mặt ở miền Bắc, ngày 7/7/1950, và vào tháng 8/1950, Đại sứ TC, La Quý Ba đưa phái đoàn cố vấn 79 người qua.
Phong trào “Chỉnh huấn” năm 1950 trong nội bộ VM bùng nổ, sau cuộc gặp gỡ giữa các lãnh tụ cs. Đó là phương thức thanh lọc đảng viên theo ý kiến của cố vấn TC, qua việc tự phê, tự kiểm nhằm mục đích thách đố, kiểm tra lại sự trung thành tuyệt đối với tư tưởng chuyên chính vô sản, để hoàn toàn lột xác trở thành con người cộng sản thuần hóa trước khi bước vào những giai đoạn CCRĐ kế tiếp.
Sau những khóa học tập nhồi sọ tư tưởng vô sản, thử thách kiểm nghiệm đầu tiên của cố vấn TC là bản án tử hình Mẹ nuôi Nguyễn Thị Năm, còn được gọi là Bà Cát Hanh Long (người đã từng che chở, đóng góp tài vật, và nuôi dưỡng những cán bộ, bộ đội cs, trong số đó có cả Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, nhà thơ Hữu Loan, nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ Quang Dũng, v.v.) năm 1952 trong thí điểm CCRĐ tại 6 xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. “Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài “Địa Chủ Ác Ghê”. Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này” (trich từ “Cuộc Cải cách Ruộng đất: Bà Cát Hanh Long, Nguyễn Thị Năm và ông Hồ Chí Minh“, 19/07/2010, Nguyễn Duy Quanh).
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-2.jpg?w=642&h=286&h=286
Bà Cát Hanh Long, Nguyễn Thị Năm) * (Địa Chủ Ác Ghê : “…Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la…
Giai đoạn nầy bị kéo dài vì VM quá bận rộn với những chiến trường như Vĩnh Yên (01/1951, cách Hà Nội 37 km), Mạo Khê, (gần Hải Phòng) với những tổn thất nặng nề, và hoàn toàn thất bại; kế tiếp là chiến dịch Tây Bắc (14/10/1952 – 10/12/1952) với kế hoạch và sự chỉ đạo của La Quý Ba, và Vy Quốc Thanh (theo bbc.co.uk “Cố vấn Trung Quốc và đường đến Điện Biên“, 24/03/2004), VM đã thành công chiếm giữ Lai Châu, Sơn La, Mộc Châu, Nghĩa Lộ, Yên Bái. Mở rộng hoạt động trong vùng Tây Bắc bao gồm Lào Cai. Đó là những vùng nằm trong CCRD sau nầy.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-4.jpg?w=377&h=299&h=299
Chiến dịch Tây Bắc (14/10/1952 – 10/12/1952
3-Giai Đoạn Thứ Ba : 20/04/1953 – 18/12/1953 (khoảng 7 tháng)
Qua sắc lệnh ngày 20/04/1953 nhằm củng cố, cải tổ thêm vào chi tiết cho những sắc lệnh trước đó, đồng thời thành lập Ủy ban Nông nghiệp từ cấp xã trở lên, để giám sát sự thu hoạch, trưng thu cho VM, và đẩy mạnh tiến trình tịch thu tài sản “địa chủ ác ôn, Việt gian”. Trong đó, theo chỉ đạo của TC, năm thành phần được phân biệt như sau :
a-Địa chủ: có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác, và được chia ra ba hạng :
1. Địa chủ thường : có khoảng dưới 5 mẫu, đủ ăn, không phạm tội ác ôn.
2. Địa chủ cường hào ác bá : hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố nông.
3. Địa chủ phản động : quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại Việt, hay thân Pháp.
b-Phú nông : có khoảng 3 mẫu đất, một con trâu, trực canh và thuê mướn tá điền.
c-Trung nông : có dưới 3 mẫu, trực canh, đủ sống, và được chia ra hai hạng :
1. Trung nông cấp cao : có dưới 3 mẫu, một con trâu hay bò.
2. Trung nông cấp thấp : có dưới 1 mẫu.
d-Bần nông : có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê hay thuê đất của địa chủ.
e-Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, gia súc, nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống.
* Sau chiến dịch Tây Bắc, những cố vấn TC mới rảnh tay lên kế hoạch thúc đẩy CCRĐ, như trong đoạn trích đã viết : “Mùa xuân 1953, Zhang Dequn trở thành lãnh đạo ban củng cố đảng và Cải cách Ruộng đất (thuộc nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc). Để tăng lực lượng, Bắc Kinh gửi thêm 42 chuyên viên (theo bbc.co.uk “Cố vấn Trung Quốc và đường đến Điện Biên“, 24/03/2004).
Hoạch định tiến hành CCRĐ đã chuẩn bị đầy đủ. Tổ đội gồm 7,8 cán bộ của Ủy ban Nông nghiệp túa về làng xã nhằm tuyên truyền, dẫn dụ, và khích động tâm lý quần chúng chống lại các điền chủ qua phương thức “tam cùng” (hay “tam đồng” là cùng ăn, cùng ngủ, và cùng làm) với bần nông để “thăm nghèo hỏi khổ” moi móc lý lịch mọi người, và sau đó “bắt rễ, xâu chuỗi” tạo những hạt nhân bần cố nông chuyên chính vô sản cho những cuộc đấu tố trước Tòa án Nhân dân, với nhiệm vụ là tố cáo nông dân theo chủ ý phân loại thành phần của Ủy ban Kháng chiến. Bản án của Tòa án Nhân dân luôn có tính cách chung thẩm (nạn nhân không được kháng án, chống đối hay khiếu nại với ai).
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-5.jpg?w=634&h=245&h=245
Tòa án Nhân dân đang khai diển * Chính thật là hai Ông Bà… địa chủ già ?
Trong bài viết “Cố vấn Trung Quốc và đường đến Điện Biên” cho biết thêm:
“Trong chiến dịch Củng cố Chính trị, nhiều người có nguồn gốc nông dân và công nhân được thăng chức. Chiến dịch đã giúp tăng tinh thần cho quân đội, chuẩn bị họ cho cuộc quyết chiến với Pháp tại Điện Biên Phủ
Và tác giả Qiang Zhai của “China and the Vietnam Wars, 1950-1975” đã có nhận xét như sau :
Mặc dù cải cách ruộng đất thành công trong việc thỏa mãn nhu cầu ruộng cho nông dân và huy động họ về với đảng, nhưng nó cũng để lại các hậu quả.”4-Giai Đoạn Thứ Tư : 19/12/1953 – 20/07/1954 (khoảng 7 tháng)
Đảng Lao Động của VM sau kỳ họp đầu tháng 12/1953, cho ra một kế hoạch được soạn thảo kỹ lưỡng dựa theo Trung cộng và Hàn cộng, và phát động phong trào “Ruộng Đất cho Người Cày” qua sắc lệnh 197/SL ngày 19/12/1953 cho Luật Cải Cách Ruộng Đất ngày 4/12/1953, trong đó bao gồm:
a-Tịch thu và bãi bỏ quyền sở hữu đất đai của “thực dân Pháp” (Điều 1)
b-Ngoại kiều và gia đình họ có thể yêu cầu được phần chia (Điều 25, Phần 10)
c-Ngoại kiều được quyền sở hữu ruộng đất nếu làm mọi bổn phận như người Việt Nam (Điều 19)
d-Trưng dụng đất đai của những thành phần “tiến bộ” hợp tác với VM, và sẽ được bồi thường bằng công phiếu với lãi suất 1,5% mỗi năm (Điều 4)
e-Chia theo nhân khẩu, không theo sức lao động (Điều 26)
f-Người được phân chia có quyền sở hữu, chuyển nhượng, cầm, bán (Điều 31)
g-Những cơ sở tôn giáo có thể yêu cầu được phần chia ruộng đất (Điều 25, Phần 6)
h-Thiết lập Tòa án Nhân dân Đặc biệt để xét xử tranh chấp (Điều 36)
i-Quyết định về thành phần giai cấp phải do Uỷ ban Kháng chiến Hành chính (Điều 34)
j-Nghiêm cấm mọi hành động chống lại (Điều 35)
Điều 19, và 20 nhằm miễn trừ đất đai của người ngoại quốc, đặc biệt là người Hoa Kiều dưới sự bảo trợ của CHNDTH.
* Vì giai đoạn thứ tư nầy nằm trong sự sống chết của VM trong trận chiến Điện Biên Phủ (13/03/1954 – 7/05/1954), nên sắc lệnh 197/SL trong tháng 12/1953 cho thấy csvn theo ý kiến của cố vấn TC Qiang Zhai đã tháo mở ra hơn nhằm dẫn dụ lôi cuốn giai cấp bần cố nông, và đánh lạc hướng tâm lý nông dân. Đó là mục đích của sắc lệnh trên, với những ưu đãi về quyền sở hữu, sử dụng đất đai, sang nhượng, mua bán, ngay cả với những tổ chức tôn giáo. Nhưng chỉ kéo dài được 7 tháng hơn, trước khi bước vào giai đoạn tranh đấu tận tuyệt sau cùng. Tuy nhiên, đảng Lao Động của VM vẫn không quên công ơn người Tàu với đặc quyền miễn nhiễm về đất đai mà đáng lý ra họ phải bị đấu tố từ lâu nếu sống trên đất TQ.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-6.jpg?w=633&h=248&h=248
“Tình Hữu Nghị… Muôn Năm”… không sai ‼! * Tình Anh… Em vẫn mặn nổng !
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-7.jpg?w=634&h=207&h=207
Dân chúng hồ hỡi đi xem… văn công ? Địa chủ… già “đền-nợ-máu-cho-nhân-dân” ?
5-Giai Đoạn Thứ Năm : 14/06/1955 – 30/07/1956 (khoảng 1năm)
Cuộc CCRĐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng đồn lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng sợ hãi di cư vào Nam sau Hiệp Định Genève 20/07/1954, nhưng cũng đã có khoảng 1 triệu người bỏ đất Bắc, đa số là giáo dân chiếm hơn 79%. Ngăn bởi vĩ tuyến 17, VM đã hoàn toàn nắm lấy chình quyền miền Bắc nên với sắc lệnh 233/SL ngày 14/06/1955 là quyết sách bần cố nông hóa mọi người dân, ngoại trừ giai cấp lãnh đạo của đảng. Sắc lệnh đó bày tỏ bản chất cộng sản chuyên chính qua sự khước từ quyền tư hữu của nông dân, truất hữu đất đai của các tổ chức tôn giáo, và trưng thu tài sản không cần bồi thường; đi ngược lại phong trào “Ruộng Đất cho Người Cày” trước đó, thay vào đó là Hợp tác xã, Quốc hữu hóa. Tất cả công dân được Tòa án Nhân dân quy định thành phần xã hội, phán xét, và cấm phản đối. Đây là giai đoạn sắt máu nhất từ năm 1955 đến 1956. Sắc lệnh 233/SL năm 1955 bổ sung thêm cho sắc lệnh 197/SL năm 1953, không những thành lập Tòa án Nhân dân đặc biệt qua đề nghị của Ủy ban Hành chính tỉnh, mà một Ủy ban CCRD Trung Ương cũng được hình thành để điều động, ra chỉ thị trực tiếp, và nhận chỉ đạo từ cố vấn Trung cộng, và HCM. Đứng đầu trong Ủy ban CCRĐ là Tổng bí thư Trường Chinh (Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp), kế đến là 3 phụ tá đắc lực (theo wikipedia “Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam” ) :
-Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị) : Trưởng ban chỉ đạo thí điểm.
-Lê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị) : Trưởng ban chỉ đạo thí điểm,
-Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng) : Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch,
Và trong khoảng thời gian 23/10/1954 đến 30/7/1956 có tất cả 4 đợt CCRD khắp miền Bắc, chỉ sau khoảng 3 tháng từ cuộc di dân quy mô từ Bắc vào Nam.
* Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7/05/1954, qua kế hoạch của tướng TC
Vy Quốc Thanh, trưởng cố vấn quân sự (theo “Cố vấn Trung Quốc và đường đến Điện Biên“), cùng số vũ khí dồi dào do TC viện trợ cho VM từ kho súng đạn Hoa Kỳ (kể cả những khẩu pháo 105, và 75 ly) của Tưởng Giới Thạch để lại, và dàn cao xạ của Liên Xô cung cấp, VM tạm thời tiến hành CCRĐ một cách trì hoản, nhẹ nhàng ở những vùng thí điểm trước đó. Trong khoảng nửa năm sau từ ngày chiến thắng, VM đã đẩy mạnh CCRĐ như cơn lốc làm đảo lộn niềm tin vào đảng, một số đảng viên tự động trả lại thẻ đảng viên nhưng vẫn bị theo dõi thường xuyên vì tình nghi có tư tưởng phản động, và số đảng viên còn lại tranh đấu nhau ngấm ngầm để khỏi bị vướng vào lao tù hay mang bản tử án.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-8.jpg?w=361&h=235&h=235
Ngày 31/10/1955, đích thân ông Hồ Chí Minh sách động Ủy ban Cải Cách Ruộng Đất
Sau đây là một số hình ảnh đấu tố qua Tòa án Nhân dân đặc biệt, do nhiếp ảnh gia Liên Xô Dmitri Baltermants (1912 – 1990) chụp vào năm 1955 tại miền Bắc Việt Nam.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-9.jpg?w=642&h=516&h=516
B-Nguyên Nhân, Hậu Quả, và Kết Quả của CCRĐ
Đảng Lao Động (LĐ), tiền thân của đảng csvn, được thành lập ngày 19/02/1951, sau khi HCM gặp gỡ Stalin. Theo chiều hướng phục vụ vì cs quốc tế, đảng LĐ tuyệt đối tuân theo chỉ thị của hai lãnh tụ cs Stalin và Mao, và tuyệt đối trung thành, tin tưởng những lý thuyết, chính sách cs như một giáo điều vô sản, nên VM đã đem CCRĐ của Tàu vào miền Bắc thực thi mà không cần đắn đo suy nghĩ qua vai trò thừa hành theo ý của những cố vấn Trung cộng với quyền lực trên những tướng lãnh csvn. Điều nầy có thể chứng minh qua công cuộc đẩy mạnh CCRĐ sau khi giai đoạn sơ khởi chấm dứt vào khoảng tháng 02/1950, và mãnh liệt hơn vào khoảng giữa gian đoạn hai năm 1952, bắt đầu cho những cho màn đấu tố bằng đấu lý, rồi đấu lực, đến đấu pháp đối với người sống, và bằng đấu ảnh dành cho người tự tử trước khi bị xét xử vì không chịu nỗi hình ảnh bị sỉ nhục, đày đọa, và tra tấn hay người đã mất từ lâu trước khi có CCRĐ xảy ra.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-10.jpg?w=500&h=349&h=349
(Một hình ảnh đấu tố bên Tàu nhưng gần như quen thuộc trên đất Bắc VN)
Vấn đề còn lại là nguyên nhân nào khiến csvn thành công trong việc dẫn dụ người dân, và đó là hậu quả trầm ngấm đớn đau cho dân tộc hay kết quả thành tích của đảng sau khi CCRĐ chấm dứt vào ngày 30/0 7/1956 ?
1. Nguyên Nhân
a-Dân trí quá thấp vì cuộc sống cơ cực, bần hàn nơi thôn quê vốn chịu nhiều thiệt thòi trong chiến tranh nhưng không được chính quyền nào trợ giúp.
b-Thỏa lòng đố kỵ, ganh ghét người có tài sản.
c-Thỏa lòng trút sự oán hờn cuộc sống mình trên kẻ khác.
d-Thoả mãn sự trả thù cá nhân khi có dịp.
e-Lợi dụng cơ hội hà hiếp, cưỡng bức người mà họ thầm ưa thích, ham muốn.
f-Được hả hê trong vai trò đấu láo không tội vạ qua sự khuyến khích bởi cán bộ cs.
g-Ảo tưởng hóa trong vai trò công cụ mới với những hứa hẹn, và lý tưởng cách mạng.
h-Được tâng công, ban bố chút tài vật, lương thực mà cs chiếm được từ địa chủ.
2. Hậu Quả
a-Phá vỡ nền luân lý gia đình, xã hội VN.
b-Gây chia rẻ, ngờ vực trong làng xóm, gia đình ngay cả người thân nhất.
c-Nỗi đau thầm lặng không được bày tỏ, biện minh của con cháu người còn sống sót.
d-Lòng nhân đạo được thay thế bằng hận thù dù không còn giai cấp địa chủ nào sau đó.
e-Mỗi cá nhân tự nhốt mình trong khung hẹp của mọi tư duy, hoạt động.
f-Sự chai lì tình cảm khiến người ta ưu ái cá thể mình hơn.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-11.jpg?w=563&h=313&h=313
Thần tượng vô sản giáo của thế hệ nhóc) (Thế hệ mới toanh trong giai đoạn đấu tố
3. Kết Quả
a-Hàng triệu người di cư vào Nam trước giai đoạn thứ 5 (1955), khi Hiệp định Genève 54 vừa ký kết.
b-Con số khiêm nhường 172,008 người bị án tử trong đấu tố có 123,266 người bị oan trong 72% tỷ lệ (theo “Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945 – 2000″, tập 2, ấn bản tại Hà Nội, năm 2004-mà Sử gia Trần Gia Phụng cho biết).
c-Cào bằng xã hội nông thôn trở thành bần cố nông toàn diện, để đi vào Hợp tác xã, Quốc hữu hóa, không còn giai cấp nào khác ngoại trừ giai cấp lãnh đạo của đảng csvn.
d-Thanh lọc hàng ngủ đảng viên, cán bộ cs để cốt ráo trong tư tưởng vô sản chuyên chính.
e-Loại trừ những đoàn thể có khuynh hướng dân chủ, quốc gia không thuộc cs quốc tế.
f-Biểu tượng bản án treo cho những ai chưa trở thành tín đồ vô sản hoàn toàn.
g-Tạo nên chế độ độc tài toàn trị duy nhất do đảng csvn lãnh đạo.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-13copy.jpg?w=619&h=208&h=208
“Ông HCM nức nở trước khi đọc lời “sám hối” Lời “trần tình” cùng quốc dân của ông HCM
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-15.jpg?w=393&h=283&h=283
Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 1 (29/12/1956 – 25/1/1957 đảng csvn tán dương về thành tích tổng kết trong giai đoạn cuối của CCRĐ
C. Hôm Nay và Ngày Mai

Tội ác của đảng csvn trong CCRĐ không thể chối cải đó dù được bi kịch hóa qua những bài diển văn trong quốc hội của HCM. Luật sư Nguyễn Mạn Tường, cựu thành viên Ủy ban Trung Ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã nhắc lại nguyên tắc hành động căn bản của các Ủy ban CCRĐ là câu khẩu hiệu : “Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch.” (“Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất – Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo“).Tuy nhiên, với cái nhìn của đảng LĐ, đó là một thắng lợi to lớn trong CCRĐ. Văn thư ngày 1/7/1956 gởi cho đoàn cán bộ CCRĐ (theo Sử gia Trần Gia Phụng), HCM đã tuyên bố :”Bác thay mặt Đảng và chính phủ gởi lời an ủi gia đình những cán bộ đã hy sinh vì nhiệm vụ, đợt 5 cải cách ruộng đất rất gay go, phức tạp. Song nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ, nhờ nông dân hăng hái đấu tranh nên chính sách cải cách ruộng đất đã thu được thắng lợi to lớn.“Trường Chinh cũng hân hoan trong “Sửa Sai và Tiến Lên“: “Củng cố công nông liên minh, giữ vững và phát triển thắng lợi của Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc”

http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-18.jpg?w=651&h=286&h=286http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-19.jpg?w=644&h=271&h=271
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, và Hồ Viết Thắng là những tội đồ của dân tộc hay là những đảng viên suất sắc của đảng csvn ? Câu trả lời đó được nhận định rõ ràng đối với đảng csvn qua những vai trò lãnh đạo khác nhau của họ sau CCRĐ trong một thời gian tạm ngừng chức để nghĩ ngơi. Nhưng với những oan hồn uất ức, xin dành cho dân tộc Việt Nam tự hỏi lòng mình !1. Hôm Nay Trong tác phẩm nghiên cứu “HỒ CHÍ MINH. Nhận Định Tổng Hợp” của nhà Biên khảo Minh Võ, xuất bản tại Virginia, Hoa Kỳ, năm 2003, có đoạn nhắc đến khoảng cuối giai đoạn hai như sau : “Sắc lệnh 149/SL qui định về chính sách ruộng đất và sắc lệnh 151/SL qui định về trừng trị địa chủ do Hồ Chí Minh ký ngày 12-4-1953 là thời gian đang tiến hành chiến dịch giảm tô mà ý nghĩa đã được diễn tả như sau: “Nhà Nước Việt Nam đã quyết định đưa đấu tranh phản phong tiến lên một bước mới, tiếp thu kinh nghiệm của Trung Quốc đã sử dụng bạo lực chính trị của quần chúng đấu tranh đòi địa chủ phải giảm tô, giảm tức.”

Có phải chăng cũng là một sự “tiếp thu kinh nghiệm của Trung cộng đã sử dụng bạo lực” được công an, an ninh csvn hôm nay thể hiện một cách rất nhuần nhuyễn trên người dân dù họ hoàn toàn vô tội hay chỉ phạm phải một lỗi nhỏ không đáng kể ? Và “chính trị của quần chúng”, có phải chăng cũng chỉ là qua những bản tin luôn xảo trá một cách điêu luyện, sửa sai sự thật bằng sự lố bịch, trơ trẻn mà không bao giờ cảm thấy hổ thẹn với lương tâm, dù trên cùng một sự kiện? Những hình ảnh là sự thật không lời nói, vì lẽ chúng tự nói lên trong lương tâm của người nhìn thấy. Và đây là một vài tiêu biểu trong ngàn sự thật, trong thời gian không xa:
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/ccrd-20.jpg?w=552&h=781&h=781

Tính đến năm 2009, VN có khoảng 6.000 luật sư (theo bbc.co.uk, “Việt Nam cần nhiều luật sư giỏi“, 9/12/2009), hay theo như mong muốn của Thủ tướng Dũng là 20.000 vị trong năm 2020, nhưng có được bao nhiêu luật sư dám đứng ra đảm trách việc tố tụng cho dân oan ? Ngoại trừ một số không quá 10 luật sư như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, hết lòng vì đám dân ngu, nghèo hèn, nhận lấy vụ kiện để rồi bị sa thải bởi Đoàn luật sư qua chỉ đạo quyền lực của đảng csvn. Đến nỗi một cụ bà 77 tuổi đã về hưu, phải đứng ra làm công việc luật sư dùm cho dân oan (theo bbc.co.uk, “Cụ bà 77 tuổi quyết chống tham nhũng” , 6/07/ 2007) mà cũng còn bị đe dọa. Cụ bà cho biết :
”Hiện nay đang giải quyết một vài cá nhân đến đe dọa tôi, trấn áp tôi, bảo tôi đừng làm cái việc chống tiêu cực nữa.
Và cho biết thêm rằng : ”Cả Việt Nam có 64 tỉnh thành phố thì trong tay tôi đã có hơn 50 tỉnh thành phố bà con nhân dân đã tìm tới tôi, ở gần thì đến tôi, ở xa thì gửi đơn thư.”
Không biết cụ bà đã giúp được bao nhiêu vụ kiện được giải quyết thỏa đáng, ngoài trừ nhận đơn từ dân khiếu kiện rồi gởi đến cơ quan nhà nước nào đó theo sự hiểu biết của bà. Dĩ nhiên cụ bà cũng chẳng hơn kém gì một người dân bình thường, không quyền lực gì cả dù trước đây bà cũng là một người lính chiến đấu vì hai chữ “tổ quốc” mà đảng csvn thường phóng to ra.
http://phamdinhtan.files.wordpress.com/2011/11/temp.jpg?w=643&h=247&h=247
Vì theo lời cụ bà thì : ”Hiện nay tôi đang băn khoăn, day dứt rất nhiều với những vấn đề là người ta không nghiêm túc giải quyết. Người ta tránh, người ta không muốn giải quyết. Họ nói họ bận họp, bận này, bận kia, chỉ tôi tới chỗ này, chỉ tôi tới chỗ khác. Tôi không biết là do sự bênh vực hay vấn đề gì khác nhưng có những sự việc tôi báo cáo hàng năm nay rồi mà vẫn không được giải quyết.” Cụ bà thố lộ trong “Bà Lê Hiền Đức nói về tham nhũng và đất đai“, 24/9/2008, như sau:“Riêng về vụ người Công giáo đòi đất ở Tòa Khâm sứ Hà Nội, bà Đức, người nói rằng bà liên tục quan tâm đến các vụ kiện đất đai, lại nói bà không để ý quan tâm mà chỉ nghe trên truyền thông nhà nước.”
Với chiều hướng “chỉ nghe trên truyền thông nhà nước” kiểu đó, nên cụ bà mãi mãi vẫn “băn khoăn, day dứt” và “không biết là do sự bênh vực hay vấn đề gí khác”. Dù sao đó cũng là một tấm lòng đáng ngợi khen ngàn lần hơn so với những 5.990 luật sư còn lại ở Việt Nam. Tuy nhiên khi được đề cập đến vấn đề “nhột nhạt” (nhạy cảm) của chính quyền đối với giáo dân Thài Hà, thì cụ bà cũng đành xin “hai chữ bình an”.Hôm nay lực lượng công an, an ninh đang đóng lại vai trò “bần cố nông” để quy hoạch, cưỡng chiếm đất cho nhà cầm quyền mà không cần dùng đến hình thức đấu tố lỗi thời, và quá nhiều lời nguyền rủa. Chúng dùng luật pháp cs để hành xử, quy tội thay Tòa án Nhân Dân. Một luật pháp được viết ra với mục đích bảo vệ quyền lực đảng, ngoài ra tất cả những quyền cơ bản dành cho công dân chỉ là văn bản của từ ngữ muốn bóp méo, hay hiểu sao cũng được, mà đa số luật sư không dám than phiền hay đứng ra lên tiếng. Trong cái gọi là hình thức dân chủ hóa đó, cũng có quốc hội, hiến pháp, luật pháp, nhưng hoàn toàn chỉ là theo mô hình biến đổi từ Tòa án Nhân Dân trong CCRĐ ngày nào. Vì một khi nhà cầm quyền vung tay luật, là bắt buột mọi người phải tuân theo, cấm chống đối (như trong sắc lệnh 150/SL, 12/04/1953, Điều 2; sắc lệnh 151/SL, 12/04/1953, Điều 1) nếu không muốn bị quy là phản động, Việt gian (như theo sắc lệnh 133/SL, 20/01/1953).
Cho dù Hà Nội có “ban hành quyết định trợ cấp cho một số trường hợp có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời kỳ cải cách ruộng đất với mức 3 triệu đồng/trường hợp” (trích từ “Hà Nội: trợ cấp những người bị trưng thu tài sản“, 07/10/2004, tuoitre.vn), nhưng phải thỏa mãn đòi hỏi của sự hợp thức hóa như : “đơn đề nghị, có xác nhận của chính quyền địa phương và của người làm công tác cải cách ruộng đất hoặc những người đã sử dụng tài sản của gia đình trong thời kỳ đó”
Với tình trạng xã hội năm 2004, nếu dân oan trong thời kỳ CCRĐ muốn được đền bù 3 triệu đồng, phải qua giai đoạn “xác nhận của chính quyền địa phương và của người làm công tác CCRD” thì đó quả là một chặn đường gian nan khó tưởng, trừ khi 3 triệu được chia đều cho cả 3 phía để công việc xác nhận giấy tờ chứng minh là dân oan và tìm người làm công tác CCRĐ được thuận tiện thông qua dễ dàng hơn. Và nếu là trường hợp địa chủ bị oan thì “phải có chứng nhận của cấp có thẩm quyền sửa sai”! Thời gian hạn định chỉ trong vòng nửa năm (07/10/2004 – 31/03/2005) để chạy đôn chạy đáo xin tờ chứng nhận cho 200 đô (theo hối suất năm 2004).
Danh dự không thể đánh giá bằng tiền bạc, mà tiền bạc chỉ có giá trị tượng trương cho danh dự, nên người ta thường đòi hỏi sự đền bù bằng “một đồng danh dự”. Tuy nhiên, có lẽ nhà cầm quyền cs có cái nhìn thực tế hơn trong tư tưởng vô sản khi nghĩ rằng 3 triệu đồng đáng giá hơn 1 đồng danh dự! Giả như đem 3 triệu đồng đổi ra tiền đơn vị nhỏ nhất, chắc cũng có thể dán đầy 4 bức tường hầu che lấp những vết nhơ tội lỗi, ngoại trừ những cửa sổ tâm hồn không bao giờ che khuất được. Đó là giá trị cơ bản của con người, nếu bị chối bỏ họ sẽ không khác gì những loài hạ cấp khác.
2. Ngày Mai
Ngày mai là ngày có thế rất gần, mà cũng có thể rất xa. Như trong một sáng thức dậy, Mẹ nuôi của đảng Lao Động (tiền thân của đảng csvn), Bà Cát Hanh Long cao sang tự nhiên biến thành kẻ tử tù của đảng. Hoặc một ngày mai, không còn được nhìn thấy những tháp nhà thờ cao vút, hay nghe tiếng kệ kinh từ thiện từ ngôi chùa nào gần đó mà thay vào đó những lời ê a đầy “minh triết chính trị vô sản” vang loa đài từ những biệt thự chùa quốc doanh dát vàng tráng lệ. Tất cả nhân dân VN và TQ sẽ có cùng một tôn giáo là “Minh Triết Hồ Mao” (Hồ Mao = lông chồn).
Ngày nào đảng cs đã làm cuộc cải cách ruộng đất, rồi cải cách tất cả hệ thống giáo dục, xã hội, luật pháp v.v. thì dĩ nhiên cũng có thể sẽ có cuộc cải cách ruộng… trời (!?). Đó mới thật là thiên đàng cộng sản ! Dân sẽ được cấp phát thánh kinh “Minh Triết Hồ Mao” để tu luyện học hỏi mỗi ngày nhằm cùng nhau bước vào thiên đàng cộng sản đang được xây dựng. Nếu nhìn quanh những gì đang diển tiến hôm nay, điều nầy không hẳn là cách nói đùa ! Sự thật là cs rất lo sợ mất lòng dân, như nhà thờ không có tín đồ, nên cs sẽ dần phá bỏ tất cả những tôn giáo khác bằng mọi cách hay biến dạng giáo thể, giáo quy theo chiều hướng một tôn giáo cộng sản riêng biệt. Vì chỉ có cách đó, cs mới có thể dẫn dụ, cai trị muôn đời trên những vùng đất lấn chiếm được.
Có bao giờ người ta tự hỏi tại sao những nơi nào thuộc về cộng sản, tất cả dân chúng phải học nhồi đường lối chính trị đảng, tư tưởng nhân vật lãnh đạo cs, từ những tuổi còn lớp tiểu học đến suốt một đời người qua những nhóm họp hội đoàn, phố phường, làng xã, v.v. , thêm vào đó là những buổi bồi dưởng, thảo luận, học tập chính trị v.v nơi làm việc ? Có quốc gia tự do nào như chủ nghĩa cộng sản, bắt buộc mọi người phải học và học lấy học để một thứ tư tưởng chính trị nào đó không ? Và tại sao lại cứ mãi vẫn là chính trị, rồi tư tưởng đảng ? Phải chăng có điều gì mờ ám, không ổn, lẩn gian xảo trong đó mà cs luôn lo ngại bị khám phá ra, nên cứ bắt buộc toàn dân tộc nhồi nhét mớ chính trị cs, như trò thôi miên thần trí bằng cách chong mắt theo những vòng xoáy tròn, hay sự nhấp nháy của vài ngọn đèn sáng chói ?
Nếu tư tưởng cs thực sự tốt đẹp và hữu ích cho nhân loại, như hằng được tuyên truyền là minh triết, thì tại sao đảng lại lo sợ người dân bị dẫn dụ theo tư tưởng khác ? Có phải chăng tư tưởng cs được tạo ra từ một con người rất phàm tục (tham lam danh vọng, tiền của; ham muốn nhục dục; ưu thích được sung sướng; biết đào sâu hận thù, gian xảo; v.v.) như chính cuộc đời của những lãnh tụ cs quốc tế ? Như vậy đó có phải là minh triết cs không ? Hay chỉ toàn là đấu tranh giành lấy chính quyền, đấu tranh triệt tiêu những ai đối lập v.v. rồi lại phấn đấu đạt thắng lợi, phấn đấu tiến mau, tiến mạnh v.v. Trong đó chỉ toàn là những tham vọng thấp hèn mà không một nhà tư tưởng thế giới nào xem là minh triết. Đó là một điều tất nhiên, rất khẳng định ! Hoặc nếu có chăng, khi những kẻ a dua đua nịnh theo chế độ cs, đem vài tư tưởng học thuật của những nhà tư tưởng lớn trên thế giới, rồi sửa đổi vài chữ, nhồi nắn vài câu, sau đó tộng nhét vào cái minh triết cs.
Và lần nữa xin hãy đọc lại một dòng nhận định của Sử gia họ Trần về số người bị can lụy trong CCRĐ qua phương châm “”trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” như sau :
“Chỉ riêng với số 172,008 người bị giết, nếu tính trung bình một gia đình Việt Nam gồm có 5 người (vợ chồng và 3 con), thì số người bị liên lụy trong cuộc CCRĐ có thể lên đến 172,008 X 5 = 860,040 trong tổng số khoảng 10 triệu dân ở các làng xã đã thực hiện CCRĐ đợt thứ 5″
Xin nhắc lại lần nữa, con số 172,008 nầy chỉ là một con số được ước lượng tối thiểu nhất mà cuốn sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945 – 2000″, tập 2, ấn bản tại Hà Nội năm 2004, thông báo. Dĩ nhiên, con số thực sự có thể gấp 2 hoặc ba lần như thế ! Hãy nghe Bùi Tín, một nhân vật từng là Phó tổng Biên tập của báo Nhân Dân, và là Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, kể lại trong “Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi” , 10/2006, theo thống kê nội bộ của đảng cs (chưa được công khai hóa), ở những vùng đã làm CCRĐ :
“Như vậy là đã có hơn 80 ngàn gia đình địa chủ đã bị bắt bớ, đấu tố, hành hạ; mỗi gia đình có trung bình 4 đến 5 người, bị liên quan, nên số bị nạn lên đến 400 ngàn người. Họ mất nhà, mất tiền của, một số tự sát, còn sống cũng đói khổ, ốm đau, suy kiệt; khá đông gia đình bị tan vỡ, con cái thất học, bơ vơ…
Số “cường hào ác bá’’ (bị coi là oan hay không oan) bị tù đầy, đánh đập, tra tấn rồi bị bắn lên đến hơn 26 ngàn, tính cả gia đình bị điêu đứng theo thì con số bị nạn có thể lên đến hơn 100 ngàn. Vậy là tính sơ sơ, số nạn nhân trực tiếp nói chung lên đến nửa triệu con người.
Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp này – nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố – đã được giữ rất kín”
“… Tại cuộc mít tinh tối 29-10-1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi!
Đó là những con số dựa theo tài liệu mà cs lưu giữ, và có lẽ ông Bùi Tín cũng đã biết được từ tài liệu cs nào đó, nên cho ra hai con số tổng kết gần như nhau. Điều đáng chú ý là con số không nhỏ của 84.000 đảng viên cs cũng bị xử lý. Đó có thể chính là kết quả của sắc lệnh 133/SL, 20/01/1953.
D. Bình Kết
Thực chất của CCRĐ trong giai đoạn cuối là thanh lọc đảng bộ nhằm loại bỏ thành phần trí thức địa chủ đã từng theo kháng chiến chống Pháp năm 1954, vì con số địa chủ cường hào ác bá đã bị tận diệt từ những giai đoạn trước đó từ lâu rồi, nên Ủy ban CCRĐ đã đôn thành phần trung nông lên để đạt chỉ tiêu đề xuất là 5% cho mỗi tỉnh. Trong khi phần đông số đảng viên trí thức địa chủ đều nằm trong thành phần đó. Họ là những người có trình độ, được học hỏi, hấp thụ cái hay, cái đẹp của nền văn minh Pháp quốc; vì thế đó là một sự đe dọa cho sự phát triển của đảng csvn với thâm ý dùng giai cấp bần cố nông, hạn hẹp kiến thức, dễ sai khiến, nên dễ nhòi nắn tư tưởng cho vai trò lãnh đạo bù nhìn, chỉ một mực trung thành đến sống chết, làm theo chỉ đạo mà không cần thắc mắc, và bất chấp tất cả thủ đoạn để hoàn thành công tác. Ngoại trừ một số trí thức biết cách uốn nắn tư tưởng theo sự đòi hỏi của đảng, mới được tồn tại trong vị trí. Điểu nầy được chứng minh qua những cuộc thanh trừng đồng chí mình sau khi CCRĐ kết thút năm 1956, vì tư thù, ghen ghét, tranh chức, giành công v.v.
CCRĐ hình thành một bản án treo vô hình chung trên đầu mỗi đảng viên cs, mà họ không sao quên được con số 72.000 (84.000 – 12.000) đảng viên bị tử hình nhiều hơn gần gấp ba lần con số địa chủ ác ôn bị bắn chết (26.000), trong giai đoạn cuối đó. Đây chính là chỉ đạo của TC mà HCM phải tuân hành!
Qua những ký kết mới đây của Nguyễn Phú Trọng với TC cũng có thể có những chỉ thị kèm theo sau đó khi mà chiếc máy chém Bắc Kinh lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu những cán bộ đảng viên csvn vì phần đông đảng viên hôm nay có sự tiếp cận với thế giới tự do khá nhiều để di chuyển tài sản, gởi con cháu du học, xây dựng xui gia v.v. Đó là những chiều hướng có thể ảnh hưởng đến tư tưởng cs quốc tế, trong mầm mống ung bại có lợi cho kẻ thù số một của Trung cộng là Hoa Kỳ.
Hành Khất (Cùng sự đóng góp của những thành viên Hội Cái Bang và Bị Gậy 9-túi)
danlambaovn.blogspot.com
*
Phụ Chú :
1-”HỒ CHÍ MINH. Nhận Định Tổng Hợp“, đây là toàn bộ cuốn sách được soạn rất công phu và sâu sắc của nhà Biên khảo Minh Võ.
2-”CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TẠI MIỀN BẮC 1949-1956″ : gồm tập 1, tập 2, và tập 3, (dưới dạng pdf) được khối 8406 bỏ công ra thâu thập những bài viết, phỏng vấn của nhiều tác giả khác nhau.
3-”Cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam (1950-1952)” dựa theo những sự kiện trong “China and the Vietnam Wars, 1950-1975” của Qiang Zhai, xuất bản 2000, bản tiếng Anh. Đồng thời trong cuốn sách đó có nói đến những trợ giúp về quân sự, lương thực, và nhất là vai trò của cố vấn TQ quyết định cho chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954. (Tuy nhiên, sự trợ giúp quân sự và sự có mặt của cố vấn Liên Xô cũng góp phần không nhỏ trong trận chiến đó)
4-Một số nguồn mạng được tham khảo : www.bbc.co.uk ; www.viethuc.org ; www.vi.wikipedia ; www.talawas.org; chinhphu.vn ; dantri.com.vn ; moj.gov.vn ; tuoitre.vn
Hỡi những người cộng sản
Mỗi thức dậy sáng mai
Có bao giờ sợ hãi
Hương cách mạng hoa lài ?

Không có nhận xét nào: