Lựa chọn liên minh
Quan hệ Việt – Mỹ đang trong giai đoạn mà yếu tố lợi ích đang đóng vai trò tiên quyết. Mỹ là một đối tác quan trọng với Việt Nam bởi những tích cực mà hợp tác kinh tế, thương mại, giáo dục, chuyển giao công nghệ do Mỹ đem lại. Ngược lại, Việt Nam càng ngày càng trở nên quan trọng hơn với Mỹ, xét trên bàn cờ địa chính trị chung của khu vực châu Á. Riêng với chính quyền Obama, mở rộng hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, còn thể hiện thuyết sách ngoại giao mới tập trung vào ba ưu tiên chuyển đổi, trong đó ưu tiên chuyển đổi địa dư, từ châu Âu sang châu Á với sự trở lại của nước Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, nằm ở vị trí đầu tiên.
Trong bài toán biển Đông, Việt – Mỹ chia sẻ với nhau ba góc nhìn. Thứ nhất, các xung đột trong khu vực nên giải quyết thông qua biện pháp ngoại giao và hòa bình, tránh đụng chạm xung đột vũ trang hay lạm dụng sự bất đối xứng trong tương quan quân sự. Điều này đã được các quan chức cấp cao của hai bên khẳng định nhiều lần trong thời gian gần đây tại nhiều diễn đàn đa phương. Điểm thứ hai thể hiện qua việc hai nước đang cùng tìm một vị trí pháp lý chung trong việc quản lý hàng hải. Bản đồ đường lưỡi bò 9 điểm đứt khúc từ phía Bắc Kinh (nếu được chấp nhận) đồng nghĩa với việc xây dựng một hàng rào giới hạn quyền tự do lưu thông hàng hải của Mỹ. Với Việt Nam là dấu chấm hỏi cho việc bảo vệ chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xa hơn, là lựa chọn chiến lược, bởi vì “luật chơi” trong một trật tự với một siêu cường không phải muốn chỉnh sửa thế nào cũng được. Nhất là qua cách thức đề cao nhiều sức mạnh về “cơ bắp”.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama và các nhà lãnh đạo TPP tại APEC 19
Cùng lợi ích thì thuận chiều: liệu thời gian đã chính muồi để bàn về sự hình thành cùa mối quan hệ – thậm chí liên minh chiến lược Việt – Mỹ hay không? Trả lời phỏng vấn báo chí, thứ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh đã nhiều lần khẳng định chính sách “ba không” của Việt Nam: “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”. Trả lời nhậm chức vào tuần trước tân đại sức Mỹ tại Việt Nam David Bruce Shear cũng để mở khả năng là nhà cung cấp thiết bị quân sự cho Việt Nam, đặc biệt là những vũ khí mang tính sát thương. Những động thái này cho thấy một “định chế cứng” ở dạng liên minh quân sự, theo đó, các nước ràng buộc với nhau bằng một cam kết bảo vệ an ninh lẫn nhau (có thể chống lại một đe doạ đến từ phe thứ ba) hay cung cấp vũ khí để hổ trợ chưa đạt được một đồng thuận đủ mạnh từ hai phía. Một “định chế mềm”, tuy vậy, vẫn có thể khả thi, thể hiện qua ba kênh chính.
Kênh thứ hai là ngọai giao. Lĩnh vực dường như nhạy cảm hơn, vì gắn liền đến nhiều yếu tố khách quan khác. Năm 2010, trước động thái có vẻ “vượt rào“ từ phía Bắc Kinh, các nước Asean mở cờ trong bụng tại hội nghị An ninh khu vực vùng ARF, khi Ngoại Trưởng Hillary Clinton khẳng định “Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia của mình đối với vấn đề tự do hải hành, tự do tiếp cận các các vùng biển chung của Châu Á cũng như tôn trọng luật lệ quốc tế về biển Ðông”. Năm 2011, không khí bớt căng thẳng hơn, như vẫn theo chiều hướng cũ, khi Mỹ và Philippines nêu vấn đề cần đưa những căng thẳng hiện tại xung quanh vấn đề tranh chấp ở Biển Đông vào bàn đàm luận tại ARF. Mức độ “liên minh” giữa Mỹ và Asean có thể tiếp tục gắn kết hơn trên bình diện hợp tác đa phương, nếu vị trí của Washington được tái khẳng định trong lộ trình hướng tới đồng chung Đông Á (East Asian Community – EAC). Cho đến nay nước Mỹ (cùng với Nga) còn bị giới hạn với tư cách là quan sát viên. Đây là một diễn đàn quan trọng, mà thông qua đó – nếu được chấp thuận bằng lá phiếu của Asean – sẽ “định chế” vai trò và trách nhiệm của Mỹ vào các hồ sơ an ninh chung của toàn vùng.
Nước yếu và nước mạnh bất tương quan về lực, vì thế không tương đồng với nhau về cách thức giải quyết giữa sức mạnh và thể chế. Nước mạnh dùng luật để xây dựng trật tự có lợi, ngược lại phần nào chấp nhận hạn chế hành vi của mình trong các quy phạm của pháp lý – một mặt để đề phòng khi sức mạnh mình bị suy giảm, một mặt hạn chế các phí tổn “hành động” nếu trong mọi trường hợp đều phải tiến hành giải pháp quân sự. Nước yếu chấp nhận luật pháp, ngược lại, theo đuổi bốn mục đích. Thứ nhất là thể chế tạo dựng diễn đàn để bày tỏ quan điểm. Thứ hai gắn kết tính chính đáng cho các hành xử của mình nếu nước lớn đơn phương hủy bỏ luật chơi. Thứ ba, tạo cơ sở tiên đoán (hoặc phần nào) hạn chế khung hành động của nước mạnh hơn. Cuối cùng, định chế không phải là phương thức thần kỳ để giải quyết tất cả vấn đề, nhưng với nước nhỏ đó là một con đường tối thiểu để đảm bảo rằng các vấn đề đang còn mâu thuẫn được giải quyết pháp chế và chuẩn tắc, chứ không phải thế yếu thông qua tương quan máy bay, tàu chiến. Phân tích thế cờ tại Biển Đông chỉ ra điểm mấu chốt không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa nước mạnh và nước yếu, nước lớn và nước nhỏ, mà được định hình bởi nhiều bên, phân tầng theo nhiều góc độ. Mỹ và Vn gặp nhau ở điểm là hai bên đều đang trong thế cần xài luật để tìm hướng giải quyết. Hình thành một liên minh “pháp lý” là điểm tiệm cận gần nhất của góc nhìn này, trong đó hai việc cần nâng làm ưu tiên: (i) thống nhất một số điểm còn tranh cãi trong Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) về khu vực đặc quyền kinh tế và (ii) kêu gọi Mỹ đứng sau hậu thuẫn tiến trình đi đến một hiệp ước mang tính ràng buộc pháp lý hơn tại biển Đông giữa các đối tác liên quan.
“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên”, câu nói đã trở thành bất hữu của Archimedes. Nay với ba điểm tựa tiềm năng trong quan hệ Việt -
Mỹ chúng ta sẽ “nhấc bổng” được những gì? Bài toán sắp tới chắc chắn sẽ nằm ở việc xây dựng những điểm tựa này tới đâu thông qua quá trình xúc tiến các định chế hoá. Một thách thức vừa của cả chính phủ, vừa của nhân dân hai quốc gia để đưa quan hệ Việt – Mỹ lên một tầm cao mới.
Nguyễn Chính Tâm
Quan hệ Việt – Mỹ đang trong giai đoạn mà yếu tố lợi ích đang đóng vai trò tiên quyết. Mỹ là một đối tác quan trọng với Việt Nam bởi những tích cực mà hợp tác kinh tế, thương mại, giáo dục, chuyển giao công nghệ do Mỹ đem lại. Ngược lại, Việt Nam càng ngày càng trở nên quan trọng hơn với Mỹ, xét trên bàn cờ địa chính trị chung của khu vực châu Á. Riêng với chính quyền Obama, mở rộng hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, còn thể hiện thuyết sách ngoại giao mới tập trung vào ba ưu tiên chuyển đổi, trong đó ưu tiên chuyển đổi địa dư, từ châu Âu sang châu Á với sự trở lại của nước Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, nằm ở vị trí đầu tiên.
Trong bài toán biển Đông, Việt – Mỹ chia sẻ với nhau ba góc nhìn. Thứ nhất, các xung đột trong khu vực nên giải quyết thông qua biện pháp ngoại giao và hòa bình, tránh đụng chạm xung đột vũ trang hay lạm dụng sự bất đối xứng trong tương quan quân sự. Điều này đã được các quan chức cấp cao của hai bên khẳng định nhiều lần trong thời gian gần đây tại nhiều diễn đàn đa phương. Điểm thứ hai thể hiện qua việc hai nước đang cùng tìm một vị trí pháp lý chung trong việc quản lý hàng hải. Bản đồ đường lưỡi bò 9 điểm đứt khúc từ phía Bắc Kinh (nếu được chấp nhận) đồng nghĩa với việc xây dựng một hàng rào giới hạn quyền tự do lưu thông hàng hải của Mỹ. Với Việt Nam là dấu chấm hỏi cho việc bảo vệ chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xa hơn, là lựa chọn chiến lược, bởi vì “luật chơi” trong một trật tự với một siêu cường không phải muốn chỉnh sửa thế nào cũng được. Nhất là qua cách thức đề cao nhiều sức mạnh về “cơ bắp”.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama và các nhà lãnh đạo TPP tại APEC 19
Cùng lợi ích thì thuận chiều: liệu thời gian đã chính muồi để bàn về sự hình thành cùa mối quan hệ – thậm chí liên minh chiến lược Việt – Mỹ hay không? Trả lời phỏng vấn báo chí, thứ trưởng bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh đã nhiều lần khẳng định chính sách “ba không” của Việt Nam: “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”. Trả lời nhậm chức vào tuần trước tân đại sức Mỹ tại Việt Nam David Bruce Shear cũng để mở khả năng là nhà cung cấp thiết bị quân sự cho Việt Nam, đặc biệt là những vũ khí mang tính sát thương. Những động thái này cho thấy một “định chế cứng” ở dạng liên minh quân sự, theo đó, các nước ràng buộc với nhau bằng một cam kết bảo vệ an ninh lẫn nhau (có thể chống lại một đe doạ đến từ phe thứ ba) hay cung cấp vũ khí để hổ trợ chưa đạt được một đồng thuận đủ mạnh từ hai phía. Một “định chế mềm”, tuy vậy, vẫn có thể khả thi, thể hiện qua ba kênh chính.
Ba điểm tựa của thì hiện tại
Đầu tiên là qua kênh kinh tế. Một Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn có nằm trong lợi ích của Mỹ hay không? Các nhà chiến lược theo trường phái duy thực sẽ trả lời có, vì dưới góc nhìn của họ không có phương thức nào tốt hơn để kiềm chế sự trỗi dậy của một nước đang lên bằng cách thúc đẩy sức mạnh của các nước láng giềng khác trong vùng. Cân bằng bên ngòai (offshore balancing) mang ý nghĩa tạo ra một khung bó buộc hành động của đối thủ dựa trên trọng lực của các nước xung quanh, mà không cần tham gia đối đầu trực tiếp. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, hưởng lợi trực tiếp của lựa chọn này trên hết là kinh tế. Kế hoạch Marshall tại châu Âu hay hổ trợ tái thiết Nhật Bản những năm sau thế chiến II cùng theo đuổi kịch bản tưong tự. Thặng dư trong thương mại, chuyển giao nhanh công nghệ, tăng tốc quá trình phát triển, để mạnh và để trở thành một lực lượng đóng vai trò chiến lược. Việc Vn liên tục nhập siêu với Mỹ trong những năm gần đây thể hiện xu thế đó. “Hiệp định Thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Partnership Trade Agreement – TPP)” hiện đàm phán tới vòng thứ sáu, cũng có thể là một lực đẩy mới. Sáng kiến thương mại tự do được Mỹ khởi xướng gần đây tiếp tục sẽ gắn Việt Nam vào dòng thác thương mại đa phương toàn cầu, thiết lập một liên minh ngoại thương mà tầm hoạt động của nó là xuyên hai châu lục. Xét về mặt địa chính trị, ý nghĩa thứ hai có thể vượt qua những con số thông kế, không chỉ là một kế hoạch tự do thương mại, mà còn là “một dự án chính trị” nhằm thiết chế hoá một môi trường khu vực ổn định.Kênh thứ hai là ngọai giao. Lĩnh vực dường như nhạy cảm hơn, vì gắn liền đến nhiều yếu tố khách quan khác. Năm 2010, trước động thái có vẻ “vượt rào“ từ phía Bắc Kinh, các nước Asean mở cờ trong bụng tại hội nghị An ninh khu vực vùng ARF, khi Ngoại Trưởng Hillary Clinton khẳng định “Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia của mình đối với vấn đề tự do hải hành, tự do tiếp cận các các vùng biển chung của Châu Á cũng như tôn trọng luật lệ quốc tế về biển Ðông”. Năm 2011, không khí bớt căng thẳng hơn, như vẫn theo chiều hướng cũ, khi Mỹ và Philippines nêu vấn đề cần đưa những căng thẳng hiện tại xung quanh vấn đề tranh chấp ở Biển Đông vào bàn đàm luận tại ARF. Mức độ “liên minh” giữa Mỹ và Asean có thể tiếp tục gắn kết hơn trên bình diện hợp tác đa phương, nếu vị trí của Washington được tái khẳng định trong lộ trình hướng tới đồng chung Đông Á (East Asian Community – EAC). Cho đến nay nước Mỹ (cùng với Nga) còn bị giới hạn với tư cách là quan sát viên. Đây là một diễn đàn quan trọng, mà thông qua đó – nếu được chấp thuận bằng lá phiếu của Asean – sẽ “định chế” vai trò và trách nhiệm của Mỹ vào các hồ sơ an ninh chung của toàn vùng.
Nước yếu và nước mạnh bất tương quan về lực, vì thế không tương đồng với nhau về cách thức giải quyết giữa sức mạnh và thể chế. Nước mạnh dùng luật để xây dựng trật tự có lợi, ngược lại phần nào chấp nhận hạn chế hành vi của mình trong các quy phạm của pháp lý – một mặt để đề phòng khi sức mạnh mình bị suy giảm, một mặt hạn chế các phí tổn “hành động” nếu trong mọi trường hợp đều phải tiến hành giải pháp quân sự. Nước yếu chấp nhận luật pháp, ngược lại, theo đuổi bốn mục đích. Thứ nhất là thể chế tạo dựng diễn đàn để bày tỏ quan điểm. Thứ hai gắn kết tính chính đáng cho các hành xử của mình nếu nước lớn đơn phương hủy bỏ luật chơi. Thứ ba, tạo cơ sở tiên đoán (hoặc phần nào) hạn chế khung hành động của nước mạnh hơn. Cuối cùng, định chế không phải là phương thức thần kỳ để giải quyết tất cả vấn đề, nhưng với nước nhỏ đó là một con đường tối thiểu để đảm bảo rằng các vấn đề đang còn mâu thuẫn được giải quyết pháp chế và chuẩn tắc, chứ không phải thế yếu thông qua tương quan máy bay, tàu chiến. Phân tích thế cờ tại Biển Đông chỉ ra điểm mấu chốt không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa nước mạnh và nước yếu, nước lớn và nước nhỏ, mà được định hình bởi nhiều bên, phân tầng theo nhiều góc độ. Mỹ và Vn gặp nhau ở điểm là hai bên đều đang trong thế cần xài luật để tìm hướng giải quyết. Hình thành một liên minh “pháp lý” là điểm tiệm cận gần nhất của góc nhìn này, trong đó hai việc cần nâng làm ưu tiên: (i) thống nhất một số điểm còn tranh cãi trong Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) về khu vực đặc quyền kinh tế và (ii) kêu gọi Mỹ đứng sau hậu thuẫn tiến trình đi đến một hiệp ước mang tính ràng buộc pháp lý hơn tại biển Đông giữa các đối tác liên quan.
“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên”, câu nói đã trở thành bất hữu của Archimedes. Nay với ba điểm tựa tiềm năng trong quan hệ Việt -
Mỹ chúng ta sẽ “nhấc bổng” được những gì? Bài toán sắp tới chắc chắn sẽ nằm ở việc xây dựng những điểm tựa này tới đâu thông qua quá trình xúc tiến các định chế hoá. Một thách thức vừa của cả chính phủ, vừa của nhân dân hai quốc gia để đưa quan hệ Việt – Mỹ lên một tầm cao mới.
Nguyễn Chính Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét