Pages

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Tết Ta Nói Chuyện Mình


Vi Anh.

 
Tin vui sơ khởi ngày Tết của Việt Nam hải ngoại. Tin truyển hình VHN-TV, tiêu biểu như  tại thủ đô tinh thần của ngưởi Việt hải ngoại, Chợ Hoa Phước Lộc Thọ khai trương tưng bừng, mưa xuân đẹp trời,mát mặt. Hơn 70 gian hàng, gồm nhiều mặt hàng, từ bánh mứt, phong bao lì xì, trái cây hoa quả, đặc biệt là hoa mai, hoa lan, đủ thứ hoa. Hoa Mai Cali có chậu ghi giá 400 mỹ kim, có chậu giá đến 2,000 mỹ kim mang dáng dấp của cành bonsai trĩu nụ. Sáng kiến hay, mua, chơi mai, sau Tết có thể gửi lại nhà vườn chăm sóc đến Tết năm sau lại mang về, với giá tiền tùy theo cây lớn nhỏ, nhưng đắt nhất là 250 mỹ kim.

Tận Miền Nam Hoa kỳ, TB Mississippi,  Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam ở Biloxi, tổ chức Hội Chợ Tết. Thứ Bảy và Chúa Nhật, mùng 02 và 03 tháng 02, năm 2013 từ 10 giờ sáng tới 10 giờ tối.

Sang bên Úc, người Việt ở  thủ đô Úc, tổ chức Melbourne rất đoàn kết dần công nhau mở hội chợ Tết, cứ mỗi cuối tuần, một địa điểm. “ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo, bánh chung xanh” truyển thống có đủ.

Tết này nữa là Tết thứ 38 của người Việt Nam Hải ngoại. Ba mươi tám năm là khoảng thời gian dài hơn một chút xã hội học gọi là thế hệ. Nhưng đối với người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại, đó là cả ba thế hệ chụm lại thành một cuộc hành trình đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang.

Trong lịch sử Việt chưa có một cuộc di tản, di cư nào lớn như vầy. Cuộc di tản sau 30 tháng Tư năm 1975 là một cuộc di tản, đông đảo, nguy hiễm, kéo dài, ra khỏi nước nhà, ít ai hy vọng trở lại được. Riêng phong trào dùng thuyền nan vượt đại dương đã chấn động lương tâm Nhân Loại. Theo ước lượng của Phủ Cao Ủy Người Tỵ nạn của Liên Hiệp Quốc, có bao nhiêu thuyền nhân  (boatpeople) đến được bến bờ tự do thì ít nhứt phân nửa chết dưới biển vì VC rượt bắn, vì sóng biển, vì hải tặc. Nếu tính gian khổ chết chóc  trong khi đi và vinh quang phát triễn văn minh VN khi định cư ở hải ngoại, thì có thể so sánh với cuộc  di tản của dân Do Thái ra khỏi Cỗ Ai Cập, ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn minh Tây Phương; Kinh Cựu Uớc của Công Giáo là túi khôn của người Do Thái.

Phàm trong cái rủi có cái may. Trong dòng lịch sử dài của người Việt, chưa bao giờ dân tộc Việt lại có cái may như cái may này. Định cư ngay trong lòng văn minh Tây Phương với khoa học kỹ thuật tiền tiến nhứt hoàn cầu. Nhờ tự do và dân chủ ở các quốc gia định cư, người Việt đã đạt được nhiều kỳ tích. Đi vào dòng chánh chánh trị. Tại Mỹ đi vào Quốc Hội tiểu bang đông dân nhứt Mỹ là Cali, đi vào Quốc Hội Liên bang sau 33 năm. Về kinh tế ăn nên làm ra, tổng sản lượng gộp cao, gởi cho bà con ở quê nhà mỗi năm cả năm bảy tỷ bạc. Về văn hoá khó mà kể hết những tác phẩm ca nhạc, văn chương đã phát hành. Truyền thông đại chúng Việt ngữ, báo chí, phát thanh, phát hình phát triễn vượt bực. Nhiều đại học Mỹ, nhiều cơ  quan chánh phủ và ngoài chánh phủ đã cấp quỹ tài trợ những dự án nhân dạng về người Mỹ gốc Việt. Viện bảo tàng Tiểu bang Cali, Viện Bảo Tàng Simithsonian của Mỹ chuyên về nghệ thuật Nhân Loại đang hình thành phòng trưng bày về người Mỹ gốc Việt.

Khó khăn nhứt cho người Việt hải ngoại là bảo tồn và phát huy tiếng Việt vì như ở Mỹ tiếng Anh là chuyển ngữ bó buộc làm chìm mọi ngôn ngữ của các sắc tộc thiểu số định cư ở Mỹ. Đặc biệt tiếng Việt lại khó hơn vì đối với chuyển ngử Mỹ, tiếng Việt  là độc âm trong khi tiếng Mỹ là đa âm. Khó  đối với tiếng Việt của CS đang xài ở nước nhà mà CS đang thống trị. Vì  tiếng Việt của ngưới Việt hải ngoại sữ dụng là tiếng Việt của người Quốc gia, tiếp nối tiếng nói liên tục theo điệu người Việt đã xài trước khi Hà nội mất, Saigon mất vào tay CS.

Nhưng với quyết tâm sắt đá, riêng tại Mỹ quốc gia người Việt định cư đông nhứt, tại các vùng người Việt quần cư đông nhứt như California, tiếng Việt được thừa nhận như một sinh ngữ thứ hai, có lớp dạy từ ở đại học nổi tiếng như Berkeley và trường trung học như Bolsa Grande. Truyền thanh, truyền hình, báo chí tiếng Việt  lên vệ tinh, lên Internet nhờ vậy  loan truyền khắp thế giới, liên kết cộng đồng VN ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Úc Châu lại với nhau trên cảm nghĩ thuộc về nhau (sense of belonging).

Chẳng những thế, người Việt hải ngoại còn nỗ lực dùng ngôn ngữ để truyền đạt văn hoá cho các thế hệ mai sau. Nhiều tờ báo, nhiều cơ sở tôn giáo, hội đoàn mở hết lớp dạy tiếng Việt này đến lớp khác. Nhưng có một đặc điểm chung, một đồng thuận mặc thị, là không chịu dùng những sách học vần, tập đọc, lịch sử do các Toà Đại sứ Việt Cộng tìm cách đưa vào. Còn trong ngôn ngữ viết và nói, người Việt hải ngoại tránh không dùng những chữ CS Hà nội du nhập vào Miền Nam. Những chữ thường dùng như chữ “đồng tình” của CS thay cho chữ đồng ý của người Việt Quốc gia, những chữ  chánh trị như sơ tán (sétaner), sô vanh (chauvin) bắt chước của Pháp, hay hồ hởi, phấn khởi, ưu việt, xã hội chủ nghĩa, bức xúc bắt chước của Tàu Cộng, người Việt Hải ngoại dùng để ngạo, chớ không phải để nói chuyện bình thường.

Biểu tượng người Việt hải ngoại cố gắng bảo tồn và đã thành công là quốc kỳ VN, nền vàng ba sọc đỏ. Quốc kỳ được tôn vinh trở thành  thiêng liêng đến mức các  nhà xã hội học coi đó như thgiêng liêng gần như thiêng liêng tôn giáo (quasi -religious). Và người Việt Hải ngoại xem quốc kỳ VN như hồn thiêng sông núi, không sống được ở VN thì mang VN theo mình như nhà văn Mỹ Dung của cuốn Ngàn Giọt Lệ Rơi nói.

Đối nội trong cộng đồng, bất cứ cuộc tập họp long trọng nào đề có chào quốc kỳ VN và hát quốc ca. Đối với quốc gia định cư, người Việt Hải ngoại, đặc biệt là ở Mỹ biết Mỹ có bang giao với VNCS và VN Cộng Hoà của mình tạm thời mất thế quốc tế công pháp, nên đã khôn khéo, linh hoạt uốn mình qua ngỏ hẹp, vận động chánh quyền sở tại thừa nhận Cờ Nên Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng Tự do, Dân Chủ của người Việt Hải ngoại. Xuất phát từ Little Saigon người Việt thân thương gọi là thủ đô tinh thần của người Việt tỵ nạn CS, quốc kỳ VN  trở thành thành phong trào lan toả ra cả chục tiểu bang và  hàng trăm thành phố quận hạt Mỹ, và bắt đầu vượt đại dương sang Úc Châu. Nhơn dân Mỹ ủng hộ đem treo lên đỉnh Everest cao nhứt của dãy núi thiêng Hymalaya, nóc nhà của thế giới. Quân đội Mỹ ủng hộ cho treo ở Chiến trường Iraq, ngày Lễ Lao động Mỹ và 30 tháng tư 2005.

Những biểu tượng kế tiếp là các phong tục, lễ lộc truyền thống  VN đều được gìn giữ và kỷ niệm long trọng. Tinh thần gia đình VN, sự gắn bó của gia đình VN đã giúp cho lớp trẻ Việt ít sa vào các tội phạm xã hội, tỷ lệ ly dị  thấp dù Mỹ là nước dẫn đầu thế giới về ly dị.  Ngành Nail được người Mỹ gốc Việt biến thành kỹ nghệ độc chiêu ở Mỹ. Món phở VN được Mỹ hoá thành “pho” của Mỹ; món chả giò VN là món ít khi thiếu trong các cuộc tiếp tân ngoại giao Mỹ.

Trong môi trường hoàn toàn tự do, tất yếu các hội đoàn, đảng phái lịch sử, và các cộng đồng non trẻ người Việt hải ngoại có khi chinh chạm, rạn nứt.. Nhưng mẫu số chung VN  vẫn còn. Tết nhứt, lễ Bà Trưng, Bà Triệu, Quang Trung, Trần hưng Đạo phe này hay phái kia, dù không thuận nhau  đều tổ chức, không ai nỡ nào bỏ qua. Công cuộc chống Cộng tuy có khác nhau về cách làm, nhưng cùng cứu cánh là đem lại tự do, dân chủ cho đồng bào trong nước, như các tôn giáo dù khác tín lý nhưng vẫn đấu tranh cho tự do tôn giáo.

Nói tóm  trong 38 năm đoạn đầu của cuộc hành trình tìm tự do, người Việt Hải ngoại đã tự tạo gần đủ điều kiện bằng việc làm tạo thành sự kiện – ngôn ngữ, biểu tượng, lối sống, kinh tế – khả dĩ có thể trở thành một Việt Nam hải ngoại, kiểu Đài Loan đối với Trung Cộng bây giờ, kiểu France dOutre mer (Pháp quốc hải ngoại) khi Đức Quốc xã tạm thời chiếm Pháp, người Pháp đoàn tụ dưới bóng cờ Pháp quốc Hải ngoại trong Thế Chiến 2 để đánh đưổi quân thù.

Nhưng hành trình của người Việt hải ngoại chưa chấm dứt vì chưa đạt mục tiêu là giúp đem lại tự do, dân chủ, nhân quyền cho đồng bào trong nước. Liệu thế hệ thứ hai, thứ ba có kề vai gánh vác như cha anh hay không?
 
 © Vi Anh

Không có nhận xét nào: