Pages

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

Phạm Xuân Nguyên - "Nhạy cảm" thành "trơ/ vô cảm"

Trong tiếng Việt của nước ta hiện nay có một từ đang bị chính trị làm hỏng khi dùng trong đời sống xã hội. Đó là từ “nhạy cảm”. Một từ chỉ khả năng tinh nhạy của các giác quan cũng như cảm xúc, tinh thần của con người đã bị làm méo nghĩa, lạc nghĩa. Bị gom vào dưới từ này là các hiện tượng, vấn đề, con người, tác phẩm bị canh chừng, bị ngăn chặn, bị cấm đoán, không được nói, không được bàn, không được viết. Nào là “vấn đề nhạy cảm”, “khu vực nhạy cảm”, “vùng nhạy cảm”, “ý kiến nhạy cảm”, vân vân và vân vân.

Mới đây nhất từ “nhạy cảm” lại xuất hiện trong công văn số 2896 / CXB – QLXB ngày 31.7.2013 do ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng cục Xuất bản ký, gửi đến NXB Lao Động và công ty Alpha Books, đề nghị hai đơn vị này “đình chỉ phát hành để tổ chức thẩm định nội dung bộ tiểu thuyết Đại gia”. Nhưng trước khi bàn vào chuyện đó, ta hãy xem các định nghĩa về từ “nhạy cảm” trong từ điển.

Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1988, tr. 734, giải nghĩa:
Nhạy cảm t. Có khả năng nhận biết nhanh và tinh bằng các giác quan, bằng cảm tính: Da nhạy cảm với nhiệt độNhạy cảm với cái đẹp của thiên nhiênTrái tim nhạy cảm của người mẹ.

Từ điển Oxford (Advanced Learner’s Dictionary, 2000) tr. 1212 giải thích từ “Sensitive” (“Nhạy cảm”) có 6 nghĩa như sau: 
  1. Về cảm giác của con người. 1) nhận biết và có khả năng hiểu được người khác và cảm xúc của họ: Cô ấy rất nhạy cảm với cảm xúc của người lạ.
  2. Về nghệ thuật / âm nhạc / văn học. 2) có khả  năng hiểu biết nghệ thuật, âm nhạc và văn học và thể hiện được mình thông qua chúng: Một nhà thơ rất nhạy cảm.
  3. Dễ khó chịu. 3) dễ gây bực mình hay khó chịu: Cô ta rất nhạy cảm khi bị phê phán.
  4. Thông tin / Vấn đề. 4) khiến anh phải xử sự hết sức cẩn thận vì có thể khiến người khác bực mình hoặc nổi giận: Chăm sóc sức khỏe là vấn đề nhạy cảm về mặt chính trị.
  5. Về lạnh / sáng / thức ăn. 5) phản ứng nhanh hoặc hơn lệ thường về điều gì đấy: Răng tôi rất nhạy cảm đối với đồ ăn lạnh.
  6. Về những thay đổi nhỏ. 6) có khả năng đo được những thay đổi rất nhỏ:Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm trước sự thay đổi chính trị.

Có thể thấy, cách chính trị nước ta dùng từ “nhạy cảm” hiện nay ứng với nghĩa 3 và 4 của từ “Sensitive” trong từ điển Oxford, nghĩa là coi mình dễ bị thương tổn, bị đụng vào đâu cũng là “nhạy cảm”, nên phản ứng chống lại mọi hành vi gây sự “nhạy cảm” đó đối với mình mà không thèm quan tâm đến sự “nhạy cảm” của toàn thể mọi con người trong xã hội. Con số trên 50.000 văn bản luật được ban hành sai quy phạm pháp luật trong mười năm qua đã cho thấy sự khác biệt thế nào giữa “nhạy cảm” của quan và “nhạy cảm” của dân. 
 

Trở lại việc đình chỉ phát hành bộ tiểu thuyết Đại gia như một trường hợp tiêu biểu gần nhất của cái gọi là “nhạy cảm”. Theo công văn trên đây, cục Xuất bản đưa ra ý kiến: “Nội dung bộ tiểu thuyết miêu tả những mối “quan hệ” làm ăn kiểu xã hội đen của một số tập đoàn kinh tế với các quan chức cấp cao của nhà nước và những thủ đoạn, mánh khóe trong công tác tổ chức cán bộ. Cùng với đó là sự tha hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng của bộ máy quan chức các cấp từ Trung ương đến địa phương. Qua tác phẩm, người đọc thấy một “tam giác ngầm” mà ở đó, quyền lực, tiền bạc và gái gú câu kết với nhau để bòn rút của cải xã hội, làm mục ruỗng đạo đức xã hội. Việc phản ánh hiện thực xã hội và đề cập đến một số vấn đề “nhạy cảm” hiện nay với tính chất cường điệu quá mức, cùng với những nhận định, đánh giả chủ quan, một chiều của tác giả sẽ ảnh hưởng không tốt cho bạn đọc và gây bất lợi cho xã hội”. Đọc đoạn viết này có ba câu hỏi được đặt ra:
1) Đoạn đầu công văn đã nói đúng nội dung của bộ tiểu thuyết Đại gia. Thế nhưng tại sao lại coi những vấn đề đó là “nhạy cảm”?  Có phải “nhạy cảm” là vì những vấn đề đó có thực nhưng không được nói vì đụng chạm đến những ai đó, những nhóm nào đó? Nhưng đây là một tác phẩm văn học, nhà văn phản ánh hiện thực đời sống bằng hệ thống nhân vật và thế giới nghệ thuật của chúng, ở đó các hiện tượng và vấn đề đã được điển hình hóa và khái quát hóa theo quy luật văn chương, từ đó độc giả có sự tiếp nhận riêng của từng người làm nên ý nghĩa tác phẩm. Chẳng lẽ nhà văn khi viết phải hỏi ai đó đâu là vùng “nhạy cảm” để trừ ra và độc giả khi cầm cuốn sách lên phải hỏi ai đó nó có “nhạy cảm” không để bỏ xuống?
2) Công văn đề nghị “đình chỉ phát hành để tổ chức thẩm định nội dung” bộ tiểu thuyết. Thế tức là phải có một hội đồng gồm các chuyên gia văn học được lập ra để đọc hơn một nghìn trang của tác phẩm này, rồi phân tích, đánh giá, và đưa ra kết luận, từ đó Cục Xuất bản mới có căn cứ để ra quyết định cho phát hành hay không. Nhưng trong công văn Cục đã tự mình phán quyết tác giả Đại gia viết “với tính chất cường điệu quá mức, cùng với những nhận định, đánh giả chủ quan, một chiều”. Đây là sự quy kết chủ quan, có tính áp đặt, phản lại chính nội dung của công văn. Nếu thế thì còn cần gì phải thẩm định? Mà nếu hội đồng thẩm định đưa ra một kết luận khác hẳn thì Cục tính sao?
3) Mệnh đề “sẽ ảnh hưởng không tốt cho bạn đọc và gây bất lợi cho xã hội” là một mẫu câu đầy phi lý, ngụy biện, giả danh luôn được dùng cho những trường hợp như thế này. Ai cho phép Cục Xuất bản được nhân danh công chúng độc giả, nói thay độc giả về sự tiếp nhận của họ đối với một tác phẩm văn học? Căn cứ vào đâu khi cuốn sách chưa ra thị trường, mà ngay cả có phải giám định thì khi hội đồng giám định chưa thành lập và chưa đánh giá, Cục dám nói nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt và gây bất lợi? Đó là cách nói hồ đồ, trùm lấp, đổ vấy.
Bộ tiểu thuyết Đại gia của Thiên Sơn (Công ty Alpha Books & Nxb Lao Động, quý III/2013) viết trực tiếp về hiện thực xã hội hiện tại của nước ta gồm hai tập: tập 1, Tam giác ngầm (543 trang), tập 2, Quyền lực đen (575 trang). Trong hơn một ngàn trang sách tác giả đã dựng lên cả một liên minh lợi ích giữa đại gia và quan chức nhà nước. Đại gia là Tấn Đạt, người đứng đầu công ty Đại Á, liên tục bành trướng thế lực của mình về kinh tế, và cả chính trị, nhờ cấu kết với bộ máy chính quyền. Quan chức là Lê Đức, một lãnh đạo cao cấp, người mở đường, vạch lối cho đại gia thao túng nền kinh tế, chiếm đoạt các lợi ích. Quan hệ giữa Lê Đức và Tấn Đạt là giữa “voi” và kẻ “chăn voi”. Bên cạnh Lê Đức là Thu Quỳnh, bên cạnh Tấn Đạt là Vân Chi, cả hai nhân vật nữ này vốn là gái chơi, “gái gọi”, sau trở thành vợ và trợ thủ đắc lực cho hai nhân vật đại diện cho hai thế lực cố kết nhau. Vây quanh hai (hay bốn) nhân vật chính này là giới kinh doanh và giới chính trị với những âm mưu, thủ đoạn làm ăn và hoạt động cả trong và ngoài nước, với những chuyện hậu trường bên trong mỗi gia đình. Đọc xong ĐG cảm giác rùng mình, lo sợ trước một hiện thực tàn bạo của những kẻ không từ một thủ đoạn bẩn thỉu và độc ác nào để độc chiếm quyền lợi và  quyền lực. Trong truyện tác giả có để xuất hiện một vài nhân vật trong chính giới biết thức tỉnh, dám đấu tranh, nhưng họ rốt cuộc đều bị bóp chết bởi guồng máy lợi ích nhóm. Kết thúc bộ tiểu thuyết là cái tin Vân Chi báo cho Tấn Đạt biết mình mang thai nhưng được chẩn đoán cái thai không có tim. Một cái kết chỉ do tác giả nghĩ ra, không đúng với nhân vật và nội dung truyện, không thể làm yên lòng được độc giả.
Nhà văn Thiên Sơn năm nay ở độ tuổi bốn mươi, đã có một số sáng tác xuất bản, trong đó có một tiểu thuyết (Dòng sông chết) đã được giải cuộc thi viết thể loại này (2006-2010) của Hội Nhà văn Việt Nam. Anh viết Đại gia trong suốt mấy năm liền trăn trở suy tư, tìm kiếm chất liệu, cấu trúc nghệ thuật tác phẩm, những mong phơi bày ra ánh sáng công luận “nỗi đau của những phận người đông đảo mà bé nhỏ, bị bóp nghẹt trong thế giới của quyền lực đen” với khát vọng cháy bỏng chung tay cùng mọi người cắt bỏ “sự méo mó này, ung hoại này” (đây là lời tác giả in ở bìa bốn cả hai tập) trên cơ thể xã hội chúng ta đang sống. Đó chính là sự nhạy cảm của lương tri nhà văn trước vận mệnh và số phận của đất nước, nhân dân. Sự nhạy cảm của văn chương trước nỗi đau của nhân quần. Sự nhạy cảm đó chính là muối của văn chương. Nhà văn muốn làm muối mà không mặn thì sao ướp mặn được cho đời. “Đã đi với nhân dân / Thì thơ không thể khác / Dân máu lệ không cùng / Thơ chết áo đắp mặt” (Phùng Quán). Những nhà văn dám xông vào cuộc sống, đi sâu vào hiện thực, dám khổ công lao động nghệ thuật để văn chương không véo von ca hát, không cam chịu làm “ánh trăng lừa dối” (Nam Cao) trên sự bần cùng khốn khổ của nhân quần bởi những kẻ có tiền và có quyền, đó là họ thực hiện đúng chức phận người cầm bút “thiên lương” của mình, đó là họ làm đúng nhiệm vụ thức tỉnh xã hội về nỗi đau nhân sinh. Thiên Sơn và bộ tiểu thuyết Đại gia là một nhà văn đúng nghĩa đó. Tại sao sự nhạy cảm như vậy của nhà văn lại không được tôn trọng, đề cao, khuyến khích mà lại cấm đoán tác phẩm của họ với sự quy kết là động đến những vấn đề “nhạy cảm”? Câu hỏi rốt cuộc lại trở lại câu mà tôi, và chắc có nhiều người nữa, đã đặt ra cho Cục xuất bản, rộng hơn là cho các cấp quản lý tư tưởng văn hóa: thế nào là “vấn đề nhạy cảm” và vì sao lại là “nhạy cảm”?
Cứ cách dùng từ và hiểu khái niệm “nhạy cảm” thế này thì sẽ dẫn xã hội nói chung, văn chương nói riêng, đến chỗ trơ cảm, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, của nhân dân, của đất nước, và biến tiếng Việt thành cùn mòn, khô cứng. Tôi muốn mọi người sẽ đọc được Đại gia, một bộ tiểu thuyết chưa phải xuất sắc về mặt văn, nhưng đã có phần sâu sắc về mặt đời. Nói theo ngôn ngữ chính trị hiện hành, tiểu thuyết Đại gia đã phóng bút vào sự suy thoái của “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”, vào sự lộng hành của quốc nạn tham nhũng, lợi ích nhóm. Tôi nghĩ Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng và Ban nội chính trung ương cần biểu dương tác giả cũng như nhà xuất bản Lao Động cùng công ty Alpha Books và cho phổ biến tác phẩm này. Điều đó ích lợi cả cho chính trị và văn học. Còn Cục xuất bản vẫn muốn tổ chức hội đồng thẩm định nội dung Đại gia thì tôi muốn mình được tham gia hội đồng đó để cùng tranh biện xem nó đã đủ “nhạy cảm” chưa.
Hà Nội Quốc Khánh 2013.
  Phạm Xuân Nguyên
 (Quê Choa)

Không có nhận xét nào: