Pages

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

NHỮNG THÁCH THỨC CỦA TRUNG QUỐC TRONG NĂM 2012

TTXVN (Angiê 5/2)


Năm Rồng mang đến điềm g


Trung Quốc vừa bước vào năm Rồng 2012, song như nhà báo Sébastien Le Belzic nhận xét trên tạp chí “Statafrik”, những người mang tin dữ đến đã thấy đó là biểu tượng của khủng hoảng và cũng là dấu hiệu rõ nét về sự phát triển một nước Trung Quốc hiếu chiến.


Chỉ cần lang thang trong các con ngõ nhỏ chạy dọc theo các ngôi chùa ở Bắc Kinh cũng đủ để thấy tử vi quan trọng như thế nào trong cuộc sống đời thường của người dân Trung Quốc. Ở nước này, không phải Đảng Cộng sản quyết định được tất cả, cũng phải tính tới phong thủy, con số, chiêm tinh, điềm tốt điềm gở nữa… Trong khi đó, Trung Quốc bước vào năm Rồng, vốn là một biểu tượng mạnh mẽ trong huyền thoại Trung Hoa từ ngày 23/1.


Tử vi Trung Hoa được chia thành 12 con giáp, trong đó rồng từ lâu là con vật được biết đến nhiều nhất. Trong khi Trung Quốc chuyển từ năm con Thỏ sang năm con Rồng, người dân Bắc Kinh rủ nhau đi xem bói thẻ hay bói số. Sau khi nhẩm tính một cách khéo léo ngày và giờ sinh cũng như một vài con số được giữ bí mật, thầy số sẽ nói về tương lai của bạn…


Có nên đùa với những lời tiên toán không?


Lời tiên đoán có thể khiến phần lớn người dân phương Tây cười bao nhiêu thì ở Trung Quốc lại được coi là cực kỳ quan trọng bấy nhiêu. Một phụ nữ có tuổi giải thích: “Tôi muốn biết năm nay có phải là năm tốt cho gia đình không. Con gái tôi sẽ lập gia đình trong năm nay và chúng tôi phải chọn ngày nào sẽ mang lại hạnh phúc cho con gái tôi.” Năm Rồng cũng sẽ là năm bùng nổ sinh nở. Thậm chí phần lớn người Trung Quốc có thể chấp nhận đẻ mổ chỉ vì muốn có một tiểu rồng trong nhà. Như vậy, họ phải tính để làm sao con họ phải ra đời trong khoảng thời gian từ ngày 23/1/2012 đến ngày 10/2/2013.



Người Trung Quốc đều bị mê hoặc bởi những bí hiểm của thuyết siêu hình, Một số mạng Internet còn cung cấp cả dịch vụ này cho người sử dụng smartphone.


Những theo thuyết này, năm nay cũng không có gì tôt đẹp lắm. Theo một nhà chiêm tinh học, năm 2012 là năm Rồng nước. Thủy và Rồng, đều là “dương” mệnh, tương sinh khi rồng gặp nước và nước gặp rồng. Đó là dấu hiệu cho thấy sẽ có những chuyển động mạnh và dữ dội, thậm chí như kiểu sóng thần, đối với Trung Quốc. Theo nhà chiêm tinh học này, điều đó có nghĩa là các “cuộc biểu tình sẽ tiếp tục nổ ra” ở nước này và tình hình “vẫn sẽ không có gì là chắc chắn cả”. Thậm chí, “biểu tình sẽ lan rộng và với quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn”. Thủy triệt Kim và đối với nền kinh tế thế giới, đó cũng là tin không tốt lành.


Kết quả là làm chính trị trong năm Rồng sẽ rất khó khăn. Hơn nữa vì đó là năm chuyển giao chính trị ở Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo sẽ chuyển giao quyền lực cho những người kế nhiệm mình. Nhưng chuyển cho ai đây? Cho đến nay, đó vẫn là điều huyền bí. Trong năm Rồng này, “Chín vị Hoàng đế”, như người ta vẫn thường gọi các ủy viên thường vụ Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, sẽ được chỉ định trước khi một trọng số 9 người sẽ được lựa chọn.


Kinh nghiệm cho thấy Tập Cận Bình sẽ trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và là Chủ tịch tương lai của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Còn Lý Khắc Cường sẽ ngồi vào ghế Thủ tướng. Nhưng lúc này vẫn chưa có gì là chắc chắn, trong khi mọi đường đi của con Rồng đều không thể đoán trước được.


Để trừ tà cho năm xem ra có vẻ khó khăn này, nghệ sĩ Chen Shaohua đã vẽ một con Rồng tuyệt đẹp để trang trí một loạt con tem đặc biệt được tất cả các nhà sưu tầm ưa thích. Hàng chục nghìn người Trung Quốc đã xếp hàng tại tất cả các bưu điện ở nước này để có được mẩu giấy thần nhỏ và kình vuông đó, khi con tem này được phát hành vào đầu tháng Giêng vừa qua. Một con Rồng mà ông Chen Shaohua cho là vừa “rắn” vừa “mạnh mẽ”, được lấy cảm hứng từ trang phục của các vị Hoàng đế triều Thanh.


Con rồng Trung Quốc liệu có hung hãn không?


Nhiều tờ báo quả thực đã đặt câu hỏi này sau khi bà Zhang Yihe tung ý kiến phê phán lên blog của mình. Nữ nhà văn nổi tiếng này tức tối trước những đường nét “gây kinh hoàng” và “dữ tợn” của con Rồng này. Đến mức trên một số diễn đàn Internet, một số người không muốn có con rồng huyền thoại này, vốn là biểu tượng của nước Trung Quốc nữa.


Nhưng nghệ sĩ Chen Shaohua vẫn bảo lưu ý kiến của mình và khẳng định chỉ có con rồng mới có khả năng chống lại các thế lực ma quỷ sẽ chi phối năm 2012. Giải thích trên tờ “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng của Hồng Công”, ông nói con Rồng là một sản vật huyền thoại của Thượng đế và là một biểu tượng của huyền thoại Trung Hoa. Đó cũng là hình ảnh vừa gây ấn tượng vừa đáng trọng, một biểu tượng sẽ bảo vệ nền kinh tế Trung Quốc trước cuộc khủng hoảng trong thời không có gì là chắc chắn này.


Biểu tượng Rồng vẫn luôn là nguồn gốc dẫn đến việc Trung Quốc và phương Tây không hiểu nhau. Các vị Hoàng đế Trung Hoa trước đây đã biến con rồng thành biểu tượng sức mạnh của mình trong hàng nghìn năm và người Trung Quốc luôn thấy ở con rồng một dấu hiệu về sức mạnh và điềm tốt. Trái lại, ở phương Tây, con rồng chứa đựng tất cả những yếu tố của một con quái vật hung hãn.


Dầu sao, để mọi người có thể chấp nhận những lời tiên đoán gở của ông về năm Rồng nước này, nhân vật bậc thầy về phong thủy nói trên nhắc lại rằng tử vi Trung Hoa vận hành theo các chu kỳ 60 năm. Và năm Rồng nước gần đây nhất là năm 1952, năm thành lập Liên minh châu Âu. Đối với nhà tiên tri này, đỏ là dấu hiệu cho thấy châu Âu cũng sẽ phải gánh chịu một cuộc khủng hoảng trầm trọng trong năm 2012 này.


Ngưi Trung Quốc sợ ngày 21/12/2012


Năm Rồng khiến số đông người Trung Quốc muốn sinh con trong năm nay, nhưng một số khác lại không muốn. Giải thích trên tạp chí “Thế- giới ngày nay”, nhà phân tích Zhu Li cho rằng họ muốn sinh con không phải để có một đứa con thần đồng, mà chỉ đơn giản vì họ cho rằng đó là cơ hội cuối cùng của mình.


Một bộ phận dân chúng trên thế giới đặt câu hỏi: “Nếu ngày tận số của thế giới rơi vào năm 2012 thì sao?” Còn Trung Quốc cũng không nằm ngoài quy luật này. Quả thực là một bộ phận dân chúng ở Trung Quốc cũng như ở các nước khác, tin rằng ngày tận số của thế giới là năm 2012. Tại sao lại muốn tạo ra cuộc sống khi cái chết đang đến gần? Theo nhà phân tích Zhu Liu, đôi khi tìm cách để hiểu lôgích Trung Hoa không phải là vô ích.


Ni sợ của s đông


Trên thế giới có nhiều người tỏ ra lo ngại với năm con Rồng. Đế chế Trung Hoa cũng không thoát khỏi quy luật này và đặc biệt là nỗi sợ trước ngày 21 tháng 12. Ở Trung Quốc, nhiều người lo sợ đến mức giãi bày tâm sự trên mạng, như Weibo (mạng của Trung Quốc giống như Twitter), và người ta thấy xuất hiện rất nhiều thông điệp nói đến ngày tận số của nhân loại.


Một cư dân mạng bày tỏ ý nguyện cuối cùng của mình với người bạn đời khi viết: “Anh yêu, ngày tận số của thế giới đang đến gần. Tại sao mình không sinh con nhỉ? Chúng mình chỉ còn 10 tháng nữa thôi.”


Li tại điện ảnh


Nếu một số người Trung Quốc tin rằng thời gian đếm ngược đã bắt đầu thì không phải do lỗi của Nostradamus (hay còn gọi là Michel de Notre Dame, nhà thiên văn học và thầy thuốc người Pháp, nổi tiếng với những công trình nghiên cứu thiên văn, và những lời tiên đoán của ông trong cuốn “Lịch sử thiên văn học qua các thế kỷ” xuất bản năm 1955 được sử dụng rất nhiều trên thế giới-TTXVN) mà là do Hollywood. Trong bộ phim “Năm 2012″ đạo diễn người Đức Roland Emmerich quả thực đã sử dụng những lời tiên đoán của tộc người Maya theo đó ngày tận số của thế giới sẽ là ngày 21 tháng 12.


Lụt lội, sóng thần, lở đất, núi lửa phun trào…, tất cả các kịch bản tồi tệ nhất có thể xảy ra đều được nói đến. Thêm vào đó là hiệu ứng đặc biệt rất thực được sử dụng trong phim và sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy nỗi lo sợ xâm chiếm tâm hồn một bộ phận dân chúng.


Tuy không thành công lắm ở Mỹ, song siêu phẩm điện ảnh này của Mỹ lại là bộ phim thu được nhiều tiền nhất ở Trung Quốc. Với số tiền thu được lên tới hơn 55 triệu euro, “Năm 2012″ đã đánh bại mọi bộ phim cạnh tranh khác. Bộ phim này thành công được là nhờ dựa trên một kịch bản nói về ngày tận thế và sử dụng hiệu ứng đặc biệt chất lượng cao, song một yếu tố hoàn toàn khác cũng dẫn đến thành công của bộ phim này ở Trung Quốc. Đó là một chiến công chưa từng thấy ở Hollywood: truyền tải một hình ảnh tích cực về Đế chế Trung Hoa.


Đúng là người Trung Quốc thường được nói đến trên màn ảnh ở Mỹ dưới góc độ không hay. Với những cảnh biếm họa trên truyền hình hay trong phim hoạt hình, bị mua chuộc trong phim nhựa…, những người bạn châu Á của phương Tây vẫn là mục tiêu ưa thích nhất của các tác giả và đạo diễn.


Thế nhưng trong bộ phim “Năm 2012″, tinh thần nhân đạo được đưa nổi bật nhờ có người Trung Quốc. Các con tàu không gian khổng lồ do họ chế tạo ở vùng núi Tây Tạng giúp các nhân vật trong phim thoát khỏi lưỡi hái của thần chết. It nhất cũng có một lần Mỹ không phải là người cứu vớt thế giới.


Phản ứng gây ngạc nhiên


Một số người Trung Quốc không ngần ngại sử dụng nỗi sợ về ngày 21 tháng 12 vào mục đích thương mại. Một số thẻ lên tàu để lên chiếc bè Gu Ming Zhou được rao bán trên Taobao.com, website lớn nhất chuyên bán hàng qua mạng của Trung Quốc. Chỉ với 0,6 euro, vé hạng sang bán chạy như tôm tươi. Một số khác thậm chí gây ra tranh cãi khi cho rằng cái chết của các nhà lãnh đạo lớn trên thế giới như Kim Châng In hay Gaddafi đáng lẽ phải được báo trước để họ có thể lên được con bè tránh ngày tận số.


Lời tiên tri cho năm 2012 cũng gây ra một số phản ứng khác ở mức độ khác. Một người dân ở tỉnh Hà Nam định đóng cho mình một chiếc bè bằng can đựng dầu ăn mà ông cho là không thấm nước. Tác phẩm của ông được xem là có thể cứu sống 20 mạng người. Một người khác thậm chí còn đi xa hơn khi dọa sẽ cho nổ tung tháp Kim Mậu, một trong những biểu tượng lớn nhất của Thượng Hải. Người thanh niên 23 tuổi này chỉ vì muốn thu hút sự chú ý của đồng bào mình và chính quyền về ngày tận số của thế giới đang đến gần, mà sau đó bị kết án 2 năm tù giam.


Nếu như ngày tận thế rơi vào năm 2016 thì sao?


Nếu nhân loại sống sót sau năm 2012 thì có nguy cơ đạo diễn Roland Emmerich sẽ lại khuấy động sự tĩnh tâm của người dân Trung Quốc. Bởi lẽ ông cũng sản xuất bộ phim của đạo diễn Tim Fehlbaum có tựa đề “Năm 2016: Đêm tàn. Lướt qua kịch bản bộ phim này sẽ thấy tình hình còn đáng lo ngại hơn cả tên phim. Một vùng đất bị tàn phá bởi bão tố hay khô cằn đến nỗi không thể sống được ở đó… Khi người ta thấy vấn đề hạn hán và sa mạc hóa ngày càng trầm trọng đang diễn ra ở Trung Quốc, chắc chắn bộ phim mới này sẽ làm cho người Trung Quôc thấy sợ.


Chiếm lĩnh không gian biển


Theo đánh giá của ông Hugues Tertrais, giáo sư trường Đại học Paris I Panthéon-Sorbonne, dồng thời là Giám đốc Trung tâm lịch sử châu Á đương đại (CHAC), trong một thời gian dài, Trung Quốc không hề quan tâm đến biển và các vấn đề liên quan đến biển. Nhưng từ sau thời kỳ Mao Trạch Đông và Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc lại tìm thấy sức mạnh kinh tế thông qua biển và bằng tài nguyên biển. Từ thương mại đến quân sự, cái được mất của sự phát triển đó liên quan đến mọi lĩnh vực và các cuộc tranh cãi trước đây với các nước láng giềng nay lại được nuôi dưỡng bằng những tính toán mang tính toàn cầu của Bắc Kinh. Dưới đây là phân tích của ông Hugues Tertrais, trên tạp chí “Đại Tây Dương”.


“Khi Trung Quốc thức tỉnh, cả thế giới sẽ rung chuyển”. Lời tiên tri được cho là của Napoléon đó được nói đến rất nhiều ở Trung Quốc trong năm 1973. Trong sự thức tỉnh của Trung Quốc, người ta gắn mục tiêu độc lập với cuộc chạy đua tìm kiếm sự thịnh vượng và đi đến kết luận rằng Trung Quốc muốn được như một con sói, vốn làm chủ được mọi hành động của mình, chứ không như một con chó trông nhà béo tốt nhưng chỉ để làm cảnh. Niềm tự hào đó có thể thấy được một cách tượng trưng trong việc Trung Quốc không chấp nhận ý tưởng về nguồn gốc duy nhất của loài người, được cho là ở châu Phi, mà tin vào sự tồn tại của “người châu Á” xuất thân từ Trung Quốc, Nhưng niềm tự hào đó thế hiện nhiều hơn trong sự gắn bó của người Trung Quốc với “Đế chế Trung Hoa” sinh ra ở hai bên bờ con sông Hoàng Hà, chạy dài tới tận Đài Loan và Tây Tạng, với chữ viết Trung Quốc là bất khả xâm phạm và thiêng liêng.


Sự yếu thế của Trung Quốc từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thể kỷ 20 – được đánh dấu bằng cuộc xâm nhập của phương Tây, sự tủi nhục trước chính sách pháo hạm và cuộc xung đột với Nhật Bản – là yếu tố giải thích việc nước này quyết tâm tìm lại niềm tự hào dân tộc từ năm 1949 mà không đánh mất bản sắc của chính mình.


Chiến lược của Trung Quốc được thực hiện trong một thời gian dài, dựa trên tính kiên nhẫn, đôi khi cả sự uy hiếp, nhưng không dựa trên đối đầu trực tiếp. Chủ tịch Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố: “Trung Quốc ngày nay là một cường quốc lớn đang trên đường cải cách và mở cửa ra thế giới bên ngòai, đang trên đường phát triển hòa bình.”


Sự phát triền hòa bình đó, vốn phản ánh nền văn hóa Trung Hoa, thể hiện ở sự phô trương sức mạnh của một nước thuộc thế giới thứ ba và lợi ích được san sẻ giữa Trung Quốc và các nước đang phát triển; ở sự tôn trọng học thuyết chủ quyền Nhà nước và nguyên tắc không can thiệp; ở phát triển kinh tế tự do; ở phát triển chủ nghĩa đa nguyên để không rơi vào chủ nghĩa song cực với Mỹ và ngăn chặn chính sách đối ngoại của một nước Ấn Độ đa cực từ lâu.


Trung Quốc thận trọng tiến hành một chính sách khác tùy theo các vùng được xác định bằng khoảng cách địa lý gần gũi với Đế chế Trung Hoa. Trung Quốc tạo ra các mối quan hệ phụ thuộc trong vùng của mình, cụ thể là để bảo vệ lợi ích của mình. Các yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc đối với các nước láng giềng như Nga, Nhật Bản hay Ấn Độ giúp Bắc Kinh tăng cường cả tư tưởng dân tộc lẫn vị thế trong vùng của mình. Điều đó cũng thể hiện qua việc Trung Quốc can dự vào Diễn đàn ASEAN để có thể khăng định rõ ràng hơn yêu sách của mình ở Biển Đông.


Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ chính sách bá quyền nào của Mỹ và cũng bác bỏ sự vượt trội có thể có của phương Tây, đồng thời cho rằng trọng tâm đã chuyển dịch sang châu Á-Thái Bình Dương.


Mức độ an ninh nội địa, chủ quyền và tính thống nhất quốc gia của Trung Quốc được đặt cao hơn thiên hướng quốc tế của nước này. Sự phát triển các mối quan hệ song phương của Trung Quốc trước hết đáp ứng lợi ích kinh tế và chiến lược của nước này (nhu cầu năng lượng), đồng thời cũng tính tới những lời phê phán đối với chế độ hiện tại. Đó chính là “đồng thuận Bắc Kinh” ưu tiên giải quyết, với các nước đang phát triển, các vấn đề phát triển trước mọi vấn đề chính trị, đối lập với cách đi của Mỹ và ưu tiên vấn đề nhân quyền.


Trung Quốc áp dụng chính sách thực dụng trong việc thiết lập liên minh và đầu tư. Điều đó giải thích tại sao nước này thâm nhập Mỹ Latinh. Bắc Kinh muốn nhảy vào vựa lúa mì Nam Mỹ cũng như dầu mỏ ở Trung Mỹ hay tài nguyên rừng ở vùng Amazone. Nhưng đầu tư của Trung Quốc vào châu Mỹ cũng đáp ứng lôgích chính trị. Tự coi mình là giải pháp thay thế sự bảo hộ của Mỹ, Trung Quốc nhờ chính sách đó mà cô lập được Đài Loan, vùng lãnh thổ có tới gần 1/2 số nước ở Mỹ Latinh duy trì mối quan hệ ngoại giao với mình.


Trung Quốc cũng thực hiện chiến lược được gọi là “chuỗi ngọc trai” giúp bảo đảm an toàn các tuyến đường giao thương của mình và củng cố vị thế của mình trên con đường vận chuyển dầu mỏ từ vùng Vịnh về.


Chính sách đa phương của Trung Quốc cũng thể hiện ở việc nước này đầu tư ngày càng nhiều vào các thể chế quốc tế. Đó là cách tiếp cận thực dụng trong các cuộc khủng hoảng trên thế giới, với việc ít sử dụng quyền phủ quyết và đề xuất hợp tác song phương ưu đãi với các nước đang phát triển, cụ thể là ở châu Phi, một khi điều đó có lợi cho nền kinh tế Trung Quốc. Nước này cũng có thể có khả năng tác động, như trong cuộc khủng hoảng hạt nhân với Bắc Triều Tiên hay trong trường hợp Iran, Darfur (Xuđăng).


Trung Quốc hòa nhập vào chiến lược của phương Tây


Cũng như trong quan hệ thương mại, không nên quá ngây thơ cũng không nên quá ngờ nghệch đối với Trung Quốc, mà phải chơi theo kiểu hai bên cùng có lợi trong mối quan hệ giữa cường quốc với nhau. Nói đúng hơn, vấn đề là phải giữ vững tính tương hỗ, một khái niệm mà người Trung Quốc rất hiểu.


Trước hết, không nên đánh giá quá cao sức mạnh của Trung Quốc vì sức mạnh đó còn phải một thời gian dài nữa mới địch được sức mạnh của Mỹ. Nhưng Trung Quốc hiện là nước không thể bỏ qua vì vị thế của nước này về phương diện kinh tế, tài nguyên biển và tầm quan trọng của thái độ của nước này đối với việc bảo vệ môi trường. Cũng không nên có mặc cảm với Trung Quốc.


Trên biển, người ta không thể không biết đến cái được mất về an ninh biển ở vùng Viễn Đông, cụ thể là ở eo biến Malacca, và hệ quả của vấn đề đó đối với quá trình toàn cầu hóa. phương Tây có lợi ích được chia sẻ (cứ 7 tiếng lại có một chiếc tàu chở côngtenơ rời Trung Quốc) và hợp tác thực sự có thể bắt đầu. Tuy nhiên, sự hợp tác đó phải dựa trên một hình thức tương hỗ, nếu không sẽ không còn giá trị và sẽ bị người Trung Quốc coi như người thuộc thế giới khác.


Trong chiến lược đối với châu Phi, Trung Quốc trước hết quan tâm đến nguồn tài nguyên năng lượng. Các mối quan hệ của Trung Quốc trong thời gian ngắn có thể làm trầm trọng thêm tình trạng bất ổn định ở châu lục này và gây ra nguy cơ cho châu Âu.


Lợi ích của châu Âu là phải áp đặt quyết định của mình trong một số dự án do Trung Quốc thực hiện ở châu Phi để buộc nước này từ bỏ cách tiếp cận thấp hèn mà hướng tới hội nhập phát triển. Chẳng hạn an ninh biển, hỗ trợ châu Phi kiểm soát chủ quyền trên biển của các nước châu lục, bảo vệ tài nguyên biển của họ bằng cách khai thác có kiểm soát, là những biện pháp có thể tạo ra những trục hợp tác song phương.


Lập trường của châu Ầu về cấm vận đối với Trung Quốc, về cuộc chơi của Bắc Kinh, về cách tiếp cận đa cực của Bắc Kinh và tài nguyên văn hóa của Trung Quốc, giúp phương Tây có được vị thế thuận lợi trong mối quan hệ với Trung Quốc. Nước này, vốn là “đệ tử” của chính sách đa phương, luôn ưa thích một cuộc đối thoại tách châu Âu ra khỏi Mỹ. Do đó, quan hệ của châu Âu với đồng minh Mỹ phải được đánh giá dưới góc độ này.


Trung Quốc là một tác nhân chủ chốt của quá trình toàn cầu hóa. Chiến lược của châu Âu cần phải tính tới yếu tố quan trọng này. Đối với phương Tây, Trung Quốc là một cường quốc, song đối với người Trung Quốc, nước này trước hết là Trung Quốc, là “Đế chế Trung Hoa”. Trung Quốc là bậc thầy trong nghệ thuật âm dương, trong kiểm soát nguyên lý âm dương, còn phương Tây luôn gặp khó khăn trong việc hiểu được tâm lý của Trung Quốc.


Vào đầu thế kỷ 21 này, người ta có thể tự hỏi liệu mối quan hệ giữa Đông và Tây có bị đảo ngược không. Dầu sao, trên biển, sức mạnh biển và hải quân của Trung Quốc dường như trước hết là để phục vụ lợi ích quốc gia của chính Trung Quốc, cụ thể là sự thịnh vượng kinh tế, rồi mới tính đến cái được mất về phát triển bền vững của thế giới hay an ninh quốc tế. phương Tây không được ngây thơ mà phải tìm cách thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng họ cũng có lợi ích khi xác lập lại quy mô thế giới này.


Không thể độc chiếm Hoàng Hải


Những gì mà Trung Quốc đã thực hiện trong quá khứ cùng với Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên liên quan đến Hoàng Hải cho thấy nước này không phải không có tinh thần hợp tác một thời. Nhưng sự lớn mạnh về kinh tế và quân sự trong hơn hai thập kỷ qua khiến Bắc Kinh có ảo tưởng mình có khả năng và có quyền thay đổi sự cân bằng địa chính trị trong vùng.


Những sự kiện diễn ra trong thời gian qua ở biển Hoa Nam (biển Đông), biển Hoa Đông, rồi Hoàng Hải là bằng chứng cho thấy lập trường quyết đoán và thái độ bất cần của Bắc Kinh đối với các nước láng giềng trong các vấn đề liên quan đến không gian biển. Cũng trên tạp chí “Đại Tây Dương”, ông Hugues Tertrais có bài phân tích đưa ra những bằng chứng lịch sử về sự thay đổi lập trường của Bắc Kinh và qua đó cho rằng giải pháp tốt nhất là cùng hợp tác vì lợi ích kinh tế chung ở những vùng biển tranh phấp.


Điều đầu tiên đập vào mắt những người quan tâm hơn đến Hoàng Hải với tư cách là một không gian biển, là sự kín đáo tương đổi của vùng biển này. Các công trình nghiên cứu về Hoàng Hải đặc biệt hiếm thấy, ít hơn rất nhiều so với những công trình nghiên cứu về biển Hoa Nam và biển Hoa Đông. Hoàng Hải cũng chiếm một vị trí rất khiêm tốn trong báo chí so với hai biển lân cận ở phía Nam.


Tuy nhiên, ở Hoàng Hải cũng như các biển Hoa Đông và Hoa Nam, đường biên giới trên biển vẫn chưa được hoạch định. Quả thực là người ta không thấy ở không gian biển này những tranh chấp về đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, cụ thể là hai miền Triều Tiên, và cũng không có một hành lang biển quốc tế lớn nào chạy qua đây. Tuy vậy, các vấn đề dầu mỏ và đánh cá có khả năng gây ra căng thẳng ở đây và tác động trực tiếp đến các tiến trình hoạch định biên giới. Cũng như vậy, sự chia cắt bán đảo Triều Tiên thực tế đã có những tác động lớn ở Hoàng Hải và biến vùng biển này thành một không gian chiến lược hàng đầu. Toàn bộ Hoàng Hải được xem như một không gian phức tạp mà muốn hiểu hết nó phải đặt mình ngoài các mối quan hệ song phương giữa Trung Quốc và hai miền Triều Tiên để từ đó mới có thể tính tới quy mô của vấn đề liên Triều.


Cái được mất địa chiến lược ở Hoàng Hải hiện nay là như thế nào? Những yếu tố nào sẽ tác động đến tiến trình hoạch định biên giới? Các yếu tố đó có thực là những nguyên nhân gây căng thẳng hay hợp tác, không?


Câu chuyện về hoạch định biên giới giữa Trung Quốc và hai miền Triều Tiên


Cuộc tranh cãi xung quanh việc hoạch định biên giới ở Hoàng Hải giữa Trung Quốc và Hàn Quốc nổ ra vào đầu những năm 1970. Hàn Quốc ủng hộ phương án khoảng cách bằng nhau và lập trường của Xơun là tương đối rõ ràng, trong khi đó Trung Quốc và Bắc Triều Tiên có lập trường ít rõ ràng hơn. Trung Quốc luôn muốn bảo vệ nguyên tắc công bằng trong hoạch định biên giới, nhưng luôn phản đối đường phân chia khoảng cách đều nhau mà muốn thay vào đó là khái niệm thềm lục địa, dựa trên các tiêu chí về địa lý và địa tầng, và như vậy có lợi rất nhiều cho họ. Không ai hiểu lập trường của Bắc Triều Tiên là như thế nào, cho dù một số ấn phẩm gần đây dường như cho thấy Bình Nhưỡng thuận theo phương án đường chia đôi.


Năm 1950, Trung Quốc xác định một vùng bảo tồn ngư nghiệp., chạy song song với bờ biển của họ ở Hoàng Hải và biển Hoa Nam, rộng 80 hải lý, và cấm tàu thuyền nước ngoài đánh cá trong các vùng đó.


Năm 1952, Hàn Quốc tuyên bố chủ quyền đối với các không gian biển, bao gồm cả tài nguyên biển và dưới lòng biển, cận kề với bán đảo. Chính phủ Hàn Quốc tìm cách loại trừ mọi tàu của nước ngoài trong vùng này, đôi chỗ vượt quá giới hạn 200 hải lý và đường chia đôi giả tưởng.


Năm 1955, Trung Quốc thiết lập vùng an ninh ở vịnh Bột Hải, nhưng lại ký một thỏa thuận đánh cá không chính thức với Nhật Bản quy định việc Nhật Bản đánh cá ở biển Hoa Nam và ở vùng nước thuộc Trung Quốc trong Hoàng Hải.


Năm 1958, Trung Quốc tuyên bố vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và biển Bột Hải như biển nội địa của mình. Việc này hoàn toàn mâu thuẫn với luật biển do Liên hợp quốc soạn thảo, nhưng không có sự tham gia của Trung Quốc.


Năm 1965, Hàn Quốc thiết lập một vùng đánh cá đặc quyền rộng 12 hải lý tính từ bờ biển của nước này. Những năm 1970 được đánh dấu bằng sự xuất hiện các vấn đề dầu mỏ và những cuộc tranh cãi đầu tiên.


Từ những năm 1969 và 1970, Hàn Quốc hoạch định thềm lục địa ở Hoàng Hải thành 6 khu, trong đó 4. khu nằm hoàn toàn hay một phần ở Hoàng Hải. Hàn Quốc đồng thời ký hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí ngoài biển với một số công ty dầu mỏ lớn của phương Tây. Đường bên ngoài của các khu này dẫu sao cũng cho thấy Chính phủ Hàn Quốc chấp nhận nguyên tắc phân chia đồng đều khoảng cách như đã được xác định trong Công ước Giơnevơ về thềm lục địa năm 1958.


Cuối cùng, trong nửa sau những năm 1970, Bắc Triều Tiên đưa ra yêu sách về biển và năm 1977 hoạch định một khu quân sự rộng 50 hải lý để bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và an ninh của mình.


Bắt đầu từ cuối những năm 1970, luật biển tiến triển dần có lợi cho các nước đang phát triển cho đến khi vào năm 1982, Hội nghị Montego Bay soạn thảo một văn bản mới chính thức ban bố vùng lãnh hải rộng 12 hải lý và Vùng kinh tế đặc quyền (EEZ) rộng 200 hải lý. Cả Trung Quốc lẫn Hàn Quốc đều phê chuẩn công ước này vào năm 1996 và qua đó xác định các điểm đường cơ sở của hai nước này. cần nhắc lại rằng các điểm đó sau này cho phép hoạch định luật pháp về biển khác nhau. Thế nhưng việc xác định các điểm đường cơ sở này đã dẫn đến sự ra đời của một số khu chồng lấn giữa hai đường ranh giới giả tưởng của các khu đặc quyền


kinh tế của Trung Quốc và Hàn Quốc ở Hoàng Hải. Từ đó trở đi, hai nước này phải tìm giải pháp để hoạch định đường biên giới trên biển của mình và dường như điều đó phụ thuộc vào các vấn đề đánh cá ngoài khơi và dầu mỏ.


Không có đảo, nhưng có cá và dầu mỏ


Cho dù đôi khi căng thẳng và phức tạp, song các nước không sẵn sàng thống nhất với nhau để tìm cách giải quyết các vấn đề đánh cá ngoài khơi. Chẳng hạn Trung Quốc và Nhật Bản từ những năm 1950 đã ký một hiệp định đánh cá, tức hai thập kỷ trước khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhưng thời gian gần đây, sự xuất hiện của luật biển mới và hợp tác kinh tế lại rất thuận lợi thậm chí đã tạo điều kiện tốt cho kiểu thỏa thuận này. Xung quanh Hoàng Hải, sự trỗi dậy của Hàn Quốc và Trung Quốc cũng như quyết tâm của hai nước mở rộng mối quan hệ kinh tế đã dẫn đến việc ký một số hiệp định đánh cá. Hai năm sau khi phê chuẩn luật biển, hai nước này đã ký thỏa thuận đầu tiên rồi được gia hạn vào năm 2000, xác định hạn ngạch khác nhau cho ngư dân Trung Quốc và Hàn Quốc tùy theo loài cá và không gian biển được xác định rõ ràng, đồng thời đóng vai trò thay thế khi chưa hoạch định được biên giới biển một cách chính thức.


Mối quan tâm đối với dầu mỏ ở Hoàng Hải, như ta đã thấy ở trên, không phải là mới và xuất hiện trong những năm 1970 theo sáng kiến của Hàn Quốc. Mục tiêu của nước này lúc đó là có phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và, bằng khả năng của mình, tìm cách hạn chế sự lệ thuộc vào nhập khẩu. Năm giếng thăm dò đã được khoan ở lòng chảo Kunsan thuộc vùng phía Nam của Hoàng Hải. Nhưng cơ cấu địa chất của vùng biển này lại vượt quá đường phân đôi giả tưởng với Trung Quốc và chưa bao giờ được khai thác triệt để.


về phần mình, vào đầu những năm 1980, Bắc Triều Tiên tiến hành thăm dò ở vịnh Tây Triều Tiên, thuộc vịnh Triều Tiên, ở ngoài khơi thành phố Anju. Để làm việc này, Bắc Triều Tiên hợp tác với Liên Xô, Tiệp Khắc và Na Uy, rồi sau đó có thêm Ôxtrâylia (vào năm 1987) và Thụy Điện (1993). Trữ lượng ở đây được đánh giá là tương đương với 12 tỷ thùng, công tác thăm dò thực hiện trên một vùng rộng khoảng 18.600 km2 được phân tích trong một thời gian dài vì thiếu tiền đầu tư và do tình hình căng thẳng địa chính trị nảy sinh do vấn đề hạt nhân. Tầm quan trọng cao của dầu mỏ đối với Bắc Triều Tiên, nước đang tìm kiếm hơi thở kinh tế thứ hai, khiến các mỏ ngoài khơi này được quan tâm đặc biệt và Chính phủ Bắc Triều Tiên có ý định mở rộng hợp tác và cho phép nước ngoài đầu tư.


Cuối cùng, các cuộc thăm dò của Trung Quốc được tiến hành từ thập kỷ 1970, nhưng còn hạn chế. Trung Quốc thực tế tập trung vào khai thác và thăm dò dầu mỏ ở vịnh Bột Hải, nơi chứa nguồn tài nguyên dầu ngoài biển chính của nước này.


Như Vậy, Trung Quốc, Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên dường như có thái độ thận trọng hơn liên quan đến nguồn tài nguyên dầu mỏ ở Hoàng Hải. Việc không hoạch định đường biên giới trên biển cản trở mọi ý định thăm dò nghiêm túc và không cho phép đánh giá rõ ràng trữ lượng được khẳng định hay tiềm tàng. Những dự báo lạc quan nhất cho đến nay có thể chỉ liên quan đến vịnh Kunsan ở phía Nam Hoàng Hải và vùng lòng chảo trong vịnh Tây Triều Tiên ở ngoài khơi Bắc Triều Tiên. Tháng 2/2007, một số chuyên gia Trung Quốc đưa ra con số từ 2 đến 2,8 tỷ tấn dầu mỏ và khí đốt tự nhiên ở Hoàng Hải.


Trong bối cảnh nguồn tài nguyền đang cạn dần và ai cũng biết dầu mỏ là tối quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của ba nước ven bờ, dầu mỏ ở ngoài khơi Hoàng Hải như vậy rất có thể sẽ gây ra căng thẳng trên một số vùng biển. Trái lại, có thể có một yếu tố hợp tác, hơn nữa vì các sáng kiến gần đây được đưa ra theo hướng này và một số khác có thể đang trong quá trình thai nghén. Cuộc thương lượng giữa hai miền Triều Tiên nhằm chuẩn bị cho hội nghị cấp cao liên Triều vào tháng 6/2000 chẳng hạn đã nói đến khả năng hợp tác liên Triều trong lĩnh vực dầu khí. Cũng như vậy, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên cam kết tiến hành khai thác chung một phần dầu mỏ ở ngoài khơi Hoàng Hải. Cuối cùng, giả thiết về việc thiết lập khu phát triển chung đặt dưới sự chỉ đạo của một Ủy ban thềm lục địa bao gồm các thành viên của cả ba nước nói trên được nêu ra.


Tình hình trên cho thấy hợp tác là giải pháp không thể bỏ qua được. Rõ ràng là việc hoạch định biên giới trên biển sẽ không được thương lượng chừng nào các nước còn chưa có ý tưởng rõ ràng về tiềm năng của các vùng có dầu và đồng thời, không xác định được không gian biển sẽ khiến mọi cuộc thăm dò gần như không thể thực hiện được. Sự thống nhất giữa ba nước liệu có cho phép thoát khỏi ngõ cụt này không? Cùng với đầu tư nước ngoài, sự thống nhất đó cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề kỹ thuật và tài chính có thể được đặt ra trong việc thăm dò và khai thác các mỏ này. Chính sách đánh cá được thông qua, cho dù đôi khi vẫn xảy ra một số tranh cãi giữa ngư dân Trung Quốc và Hàn Quốc do bên này hay bên kia không tôn trọng quy định đã được cả hai nước quyết định, liệu có thể trở thành hình mẫu không? trừ khi cả ba nước, với viễn cảnh hậu dầu mỏ hay vì lý do làm ăn có lãi, cuối cùng quyết định vĩnh viễn từ bỏ các vùng này, Cũng phải nói rằng làm như vậy không phải là không hay và có thể cho phép giải quyết vấn đề hoạch định biên giới ở Hoàng Hải, nhưng với điều kiện phải duy trì các hiệp định hợp pháp.


Điều chỉnh ở châu Á

Cũng trên tạp chí “Tin Trung Hoa”, nhà phân tích Franeois Danjou cho rằng năm 2012, ngành ngoại giao Trung Quốc sẽ phải trổ hết tài để đối phó với ảnh hưởng của Mỹ đang mở rộng ở châu Á và giải tỏa bầu không khí căng thẳng với Oasinhtơn, liên quan đến các cuộc tranh cãi giữa Bắc Kinh, Hà Nội và Manila xung quanh vấn đề biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) nảy sinh trong thời gian gần đây từ các vụ va chạm với tàu tuần tra Trung Quốc trong các vùng biển tranh chấp.

Bắc Kinh đã cử ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc sang Mianma để kiểm soát việc Mỹ làm mất ổn định một trong những đồng minh của mình, và Phó Chủ tịch Tập Cận Bình sang Việt Nam và Thái Lan. Tháng tới, nhân vật này sẽ đi thăm Mỹ theo lời mời của Phó Tổng thống Joe Biden.

Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc càng trầm trọng hơn do tình hình trong nước, vì cả hai đều đang trong giai đoạn chuẩn bị chuyển giao quyền lực. Song giai đoạn này, mở đầu với chuyến thăm Việt Nam và Thái Lan vào tháng 12/2011 của Tập Cận Bình và chuyến thăm Mỹ sắp tới của ông, không thể không trùng với một trong những động thái liên tục làm dịu tình hình có thể giúp ngành ngoại giao Trung Quốc thoát khỏi tình thế phức tạp khiến hình ảnh hòa bình của họ bị sứt mẻ.

Phần phân tích dưới đây trước hết mổ xẻ tình hình căng thẳng đang diễn ra và bị kích động thêm bởi lập trường quân sự ở Đông Nam Á giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn. Tiếp đó sẽ là những giả thiết làm dịu tình hình dựa trên những nhượng bộ mới đây của Trung Quốc đối với Việt Nam vào tháng 10/2011, trước khi hai ông Tập Cận Bình và Đới Bỉnh Quốc sang thăm.

Trung Quốc sẽ còn phải làm dịu nỗi lo sợ bị chà đạp của Philíppin, cưỡng lại các xu thế đoàn kết lại của các nước ASEAN trong các vấn đề bất đồng ở biển Nam Trung Hoa – nơi tất cả đều muốn hưởng nguồn tài nguyên, đồng thời triệt tiêu tư tưởng chống Trung Quốc đang gia tăng ở Mỹ và châu Âu.

Sức mạnh bùng nổ của căng thng dân tộc chủ nghĩa

Tại Mỹ, thời kỳ trước bầu cử, với sự xuất hiện trở lại các bài diễn văn mang tính phê phán về nhân quyền và bất đồng thương mại, lại càng không phù hợp để đàn xếp tình hình. Ngày 16/1/2012, khi trả lời phỏng vấn ở Trung Quốc, ông Gary Locke, đại sứ Mỹ tại Bắe Kinh, cho rằng tình hình nhân quyền xấu đi. Một tuần lễ sau, trong thông điệp liên bang, Tổng thống Obama nêu đích danh Trung Quốc và thông báo thành lập một đơn vị đặc biệt để phát hiện những hoạt động thương mại bất hợp pháp.

Tại Trung Quốc, bầu không khí đắm chìm trong căng thẳng trước Đại hội lần thứ 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc, lại càng nặng nề thêm do lập trường dân tộc chủ nghĩa và quan điểm cố hữu của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa. Mọi thứ cho thấy hoạt động diễn ra nhộn nhịp ở quanh căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải Nam. Theo một số lính thủy Trung Quốc được nhật báo “Asahi Shimbun” phỏng vấn, hạm đội tàu ngầm Tam Á được đặt trong tình trạng báo động từ tháng 7/2011, thực hiện hết lặn lại phóng thủy lôi. Một ngư dân kể rằng từ tháng 7/2011, ông thấy tàu ngầm xuất hiện ít nhất 10 lần. Cuối tháng 10/2011, tàu của chính ngư dân này suýt nữa bị một tàu ngầm đâm phải khi nổi lên trên mặt nước. Các cơ quan tình báo Mỹ cho biết ngoài các tàu ngầm cổ điển, căn cứ Tam Á còn có 5 tàu ngầm hạt nhân phóng tên lửa lớp Tấn được trang bị tên lửa đạn đạo có tầm bắn 8.000 km.

Hoạt động ở căn cứ Tam Á trở nên nhộn nhịp từ mùa Hè năm 2011 sau các vụ va chạm ở biển Nam Trung Hoa. Tháng 5/2011, một tàu tuần tra Trung Quốc chạy với tốc độ cao đã cắt cáp của một tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam. Tháng 6 năm đó, một đơn vị khác của Trung Quốc đã bắn vào một tàu đánh cá của Philíppin. Hai vụ đụng độ trên khiến Hà Nội và Manila phản ứng quyết liệt và tiếp đó là thái độ cứng rắn của Nhà Trắng, cộng với việc tổ chức tập trận với Philíppin vào tháng 6 và tháng 7/2011.

Tháng 11/2011, việc Mỹ thông báo tăng cường sự có mặt về quân sự trong vùng, bao gồm việc thiết lập một căn cứ của lính thủy đánh bộ ở Ôxtrâylia và đưa tàu tuần tiễu đến Xinhgapo, càng làm cho Trung Quốc lo ngại. Đồng thời, Oasinhtơn thảo luận với Manila về việc tăng cường hợp tác quân sự và chuẩn bị triển khai lực lượng trên lãnh thổ Philíppin, nơi Hải quân Mỹ duy trì một số căn cứ cho đến đầu những năm 1990.

Những động thái quân sự trên diễn ra sau khi Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc khẳng định sức mạnh và cho biết muốn “tái lập quyền của Bắc Kinh ở các vùng biển thuộc về Trung Quốc trong lịch sử”. Tướng Luo Yuan, nhân vật số hai của Học viện khoa học quân sự Trung Quốc, giải thích: “Chủ quyền của chúng tôi rõ ràng bị xâm phạm. Chúng tôi phải hành động.” Sự việc là từ năm 2009, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến hành các cuộc diễn tập đổ bộ để cắm chân trên các đảo ở biển Nam Trung Hoa và thiết lập các cứ điểm ở đây.

Theo Bộ tham mưu quân đội Trung Quốc, mục tiêu của họ là “khai thác các mỏ dầu khí (…), xóa bỏ ảnh hưởng của Mỹ ở trong vùng cũng như sự phản kháng của các nước ASEAN ven biển (…) và có được một không gian biển an toàn để triển khai tàu ngầm hạt nhân, được Trung Quốc coi là phương tiện chính để đánh trả trong trường hợp bị tấn công bằng hạt nhân”.

Lối nói đó kích động tư tưởng dân tộc và làm hài lòng trào lưu dân túy. Mới đây, tờ Thời báo hoàn cầu, một ấn phẩm của tờ Nhân dân nhật báo thường theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa nước lớn, đăng kết quả một cuộc thăm dò dư luận theo đó 83% trong số 20.000 người được hỏi ý kiến cho rằng vấn đề biển Nam Trung Hoa phải được giải quyết bằng sức mạnh quân sự.

Tháng 8/2011, trong khi Tổng thống Philíppin, Benigno Aquino, thăm chính thức Trung Quốc, một bài của tờ báo trên viết rằng “dư luận Trung Quốc không hoan nghênh chuyến thăm này” và Trung Quốc phải sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để gây áp lực với Philíppin, rồi nói thêm: “Vì chúng ta có sức mạnh nên chúng ta cần sử dụng nó để xác lập lại vùng Đông Á phù hợp với ý đồ của mình.”

Trung Quốc-Việt Nam, sử dụng ngoại giao và trí thông minh đúng kiểu

Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ý thức được tầm quan trọng cốt tử của mối quan hệ Trung-Mỹ – 400 tỷ USD trao đổi thương mại trong năm 2011- và những nguy cơ chiến lược nảy sinh từ căng thẳng với các nước láng giềng. Song do bị kẹt giữa áp lực dân tộc chủ nghĩa ở trong nước và trách nhiệm cao cả phải tháo ngòi nố bầu không khí căng thẳng, ông Tập Cận Bình sử dụng lối nói hòa dịu và kêu gọi Oasinhtơn kiềm chế. Ông nói: “Mối quan hệ Trung-Mỹ không thể bị rối loạn trong một thời gian dài” (…), “trước hết cần đề cập các vấn đề nhạy cảm liên quan đến lợi ích sống còn với sự thận trọng tối đa”.

Ở các nước ASEAN, với sự hỗ trợ của sức mạnh kinh tế và thương mại của Trung Quốc, Tập Cận Bình ưu tiên cách tiếp cận song phương, giữa hai nước với nhau, trái ngược với ý kiến của Oasinhtơn chủ trương thương lượng giữa Trung Quốc và ASEAN về các vấn đề liên quan đến biển Nam Trung Hoa, với sự tham gia của Nhà Trắng. Tuy nhiên, cũng rất có thể Bắc Kinh, với một số nhượng bộ khéo léo và kín đáo, sẽ tháo được ngòi nổ từng vụ việc một, từ đó làm cho Mỹ chưng hửng và vượt mặt Mỹ.

Điều đó có thể xảy ra trong trường hợp Việt Nam. Tập Cận Bình đến thăm nước này từ ngày 20 đến ngày 22/12/2011 để gặp Chủ tịch Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong khi Việt Nam đang phải đối phó với dấu hiệu suy thoái và lạm phát lên tới gần 20%. Sau những lời hứa hẹn hợp tác song phương trong các lĩnh vực giao dục và y tế, kèm theo một khoản cho vay 500 triệu USD với lãi suất thấp của Ngân hàng phát triển Trung Quốc, có lẽ các cuộc trao đổi về bất đồng ở biển Nam Trung Hoa diễn ra khác xa với lối nói hung hãn của giới quân sự Trung Quốc.

Trung tuần tháng 10/2011, trong một thông cáo chung với Hà Nội Bắc Kinh quả thực chấp nhận thúc đẩy nhanh việc hoạch định các vùng lãnh hải và thương lượng việc cùng khai thác ở các vùng quần đảo Hoàng Sa. Tuyên bố cho biết ít nhất là đối với vùng này, các nhà thương lượng Trung Quốc, được sự bảo lãnh của Hồ Cẩm Đào và người đồng nhiệm Việt Nam, có thể từ bỏ yêu sách đối với 80% vùng biển Nam Trung Hoa. Tuyên bố nói rõ rằng “cả hai nước tìm giải pháp lâu đài, có thể chấp nhận được đối với cả hai bên trên cơ sở Công ước Liên hợp quốc về luật biển (…) Trong khi chờ đợi một thỏa thuận tổng thể về vấn đề chủ quyền, Bắc Kinh và Hà Nội sẽ tích cực thương lượng để hợp tác vì sự phát triển chung”.

Đây không phải là lần đầu tiên hai bên đạt được thỏa thuận trái với yêu sách của Bắc Kinh đối với toàn bộ biển Nam Trung Hoa. Năm 2000 , một cam kết song phương kiểu như vậy đã được ký liên quan đến vịnh Bắc Bộ, hoạch định các vùng biển nằm giữa bờ Bắc của Việt Nam và bờ Tây đảo Hải Nam. Hải quân hai nước thậm chí còn tiến hành các chuyến tuần tra chung ở đây.

Một tài liệu của Bộ Tài nguyên đất của Trung Quốc cho biết trữ lượng của toàn bộ biển Nam Trung Hoa, lớn bằng Địa Trung Hải, tương đương với 30% trữ lượng dầu mỏ hiện nay của Trung Quốc (100 tỷ tấn). Theo ông Dong Xiucheng, giáo sư thuộc Viện dầu mỏ Trung Quốc trữ lượng dầu ở biển Nam Trung Hoa đứng hàng thứ tư thế giới.

Vân theo Bộ trên, năm 2010, dầu khai thác được ở ngoài biển chiếm tới 30% sản lượng của Việt Nam. Còn ở Trung Quốc, Công ty dầu khí quốc gia ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC) hy vọng có thể mỗi năm khai thác từ biển Nam Trung Hoa khoảng 50 triệu tấn từ năm 2020. Lượng dầu này sẽ bù đắp lượng dầu suy giảm (trung bình 3%/năm) ở các mỏ Đại Khánh và Thắng Lợi ở trong nước. Nhìn chung, các chuyên gia không phải của Trung Ọuốc cho rằng đánh giá của nước này là phóng đại.

Biển Nam Trung Hoa cũng có trữ lượng lớn khí đốt cho đến nay chưa xác định được quy mô. Một công trình nghiên cứu của us Geological Survey đánh giá trữ lượng khoảng 24.000 tỷ mét khối (tương đương với 50% trữ lượng của Trung Quốc). Cuộc chạy đua khai thác nguồn tài nguyên này ngày càng quyết liệt, trong khi Trung Quốc, Malaixia, Philíppin, Đài Loan, Brunây và Việt Nam đều đòi chủ quyền, hoàn toàn hay một phần, đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Viện dầu mỏ Trung Quốc cho rằng trên cơ sở nhu cầu của đất nước, Bắc Kinh phải cương quyết tham gia việc khai thác các nguồn tài nguyên này. Mới đây, CNOOC, công ty hàng đầu về khai thác dầu ngoài biển của Trung Quốc, xác nhận năng lực thăm dò tới độ sâu 3.000 m, và cho rằng từ nay trở đi, các cuộc thăm dò do Trung Quốc thực hiện sẽ không giới hạn ở các vùng nước sâu gần bờ của Trung Quốc nữa.

Việc năng lực khoan ở các vùng nước sâu của Trung Quốc tăng lên có khả năng sẽ làm gia tăng tình hình căng thẳng. Tháng 5/2011, CNOOC thông báo đưa một dàn khoan đến một vùng đặc quyền kinh tế mà Philíppin đòi chủ quyền. Đồng thời, Bắc Kinh yêu cầu công ty Exxon-Mobil và BP phải từ bỏ dự án thăm dò của họ ở các lô đã được Hà Nội nhượng quyền nằm trong vùng kinh tế đặc quyền của Việt Nam gần các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa BP chấp thuận làm theo, song Exxon-Mobil vẫn tiếp tục thăm dò.

Mùa Hè năm 2011 là thời gian xảy ra nhiều vụ đụng độ với Việt Nam và Philíppin, không những xung quanh các mỏ dầu mà cả tại các ngư trường, nơi tàu đánh cá của Philíppin và Việt Nam thường xuyên bị quây nhiễu. Vụ phức tạp mới đây nhất là tháng 9/2011, công ty dầu mỏ ONGC của Ấn Độ ký với Việt Nam hợp đồng thăm dò dầu mỏ trong vùng lãnh hải của Việt Nam, cũng bị Bắc Kinh chính thức cảnh cáo, yêu cầu Ấn Độ phải tránh xa các cuộc xung đột ở biển Nam Trung Hoa.

Tuy nhiên, do thái độ như người ta đã thấy vào mùa Hè và mùa Thu năm 2011 của các nước ven biển đang xích lại gần với Mỹ, và trên cơ sở đánh giá cái giá phải trả về chiến lược của các cuộc đối đầu này, có thể về ngắn và trung hạn, Trung Quốc sẽ có thái độ thận trọng hơn.

Thái Lan thân Mỹ, song cũng nhạy cảm với ý tứ của Trung Quc

Ông Tập Cận Bình tiếp tục chuyến đi tới Thái Lan, nước vừa gượng dậy sau trận lũ lụt nghiêm trọng và cũng có một số bất đồng với Trung Quốc, tuy ít gay cấn hơn so với Việt Nam và Philíppin. Bất đồng thứ nhất và cũng là bối cảnh chung của những bức xúc đối với Bắc Kinh trong toàn vùng, liên quan đến những ý kiến khác nhau về hậu quả của các đập chắn nước của Trung Quốc trên sông Mê Công, nơi Băng Cốc đứng cùng phe với Hà Nội và Phnôm Pênh.

Thêm vào đó, trong thời gian gần đây có mối nghi ngờ về việc lực lượng đặc biệt Thái Lan can dự vào vụ sát hại 13 thủy thủ Trung Quốc, từ đó cho thấy mối liên kết không lành mạnh giữa giới doanh nhân Trung Quốc và lực lượng an ninh Thái Lan. Mọi thứ đều cho thấy cả hai phía đều dính líu đến buôn bán ma túy.

Đối với Bắc Kinh, Thái Lan vừa là một nước có những giá trị trái ngược nhau, vừa là một mục tiêu lớn đối với hoạt động ngoại giao của mình, nơi sức nặng trao đổi thương mại Thái-Trung ngày càng tăng cùng với ánh hưởng văn hóa của Trung Quốc. Cựu Thủ tướng Thái Lan đang sống lưu vong Thaksin (2001-2006) đã từng tạo điều kiện cho việc phát triển nền văn hóa đó, hơn nữa vì ông là một người Thái gốc Hoa rất được lòng dân thuộc các tầng lớp nghèo và ở vùng nông thôn, và có người em gái hiện là Thủ tướng. Lợi dụng nạn tham nhũng tràn lan, ông đã lái đất nước hướng đến một chế độ dựa trên mối quan hệ làm ăn rất giống như ở Trung Quốc, không tách bạch được quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp và quyền lực kinh tế.

Mặc cho các xu hướng đó, Thái Lan vẫn là một “khu vườn cấm” có tính chiến lược của Mỹ và cũng là một trong những điểm tựa dân chủ trong vùng mà Oasinhtơn gắng sức bảo vệ Với tư cách là đồng minh chiến lược của Thái Lan, hàng năm Mỹ đều tổ chức ở đây cuộc tập trận “Hổ mang Vàng”, một trong những cuộc tập trận đa phương lớn nhất thế giới, với sự tham gia của Hàn Quốc, Nhật Bản, Xinhgapo và Inđônêxia. Cuối cùng, vì muốn lưu ý ảnh hưởng của Trung Quốc ở những nơi ảnh hưởng đó có thể trở thành “của độc”, Mỹ cũng tăng hỗ trợ tài chính cho các nước vùng hạ lưu sông Mê Công, đồng thời lên tiếng phê phán các con đập của Trung Quốc trong vùng.

Tuy nhiên, Băng Cốc lại là nước ASEAN đầu tiên ký với Trung Quốc một “kế hoạch hành động chiến lược cho thế kỷ 21″ nhằm phát triển cả hợp tác an ninh lẫn quan hệ kinh tế. Trong bối cảnh đó, cả hai nước hứa hẹn nâng trao đổi thương mại song phương lên 100 tỷ USD bắt đầu từ năm 2015 (tức gần gấp 2 lần mục tiêu dự kiến thực hiện với Việt Nam). Hai nước cũng quyết định hợp tác tài chính bằng việc ký thỏa thuận sử dụng đồng tiền Trung Quốc trong thanh toán song phương.

Sáng kiến khác hỗ trợ phát triển trao đổi thương mại là một thỏa thuận cùng xây dựng một đường tàu cao tốc nối Băng Cốc với Chiềng Mai 600 km có thể nằm trong khuôn khổ các dự án đường sắt lớn của Trung Quốc trong vùng, với Mianma hay Lào qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.

Giải thoát Mianma và sức nặng của Trung Quc

Bắc Kinh giữ các “khu vườn cấm” như gìn giữ con ngươi mắt mình, từ đó nhanh chóng phản ứng trước chiến dịch Mianma do Bộ Ngoại giao Mỹ phát động và chuyến thăm của Ngoại trưởng Hillary Clinton đến Nâypiđô.

Mianma có nhiều nguồn tài nguyên mỏ và tiềm năng rất lớn về nông nghiệp, song quản lý tồi do cuộc đảo chính quân sự năm 1962 và tiếp đó là một loạt các cuộc quốc hữu hóa, cắt đứt đất nước với thế giới bên ngoài. Thêm vào đó là các biện pháp trừng phạt do Mỹ áp đặt để trả đũa việc nước này không ngừng vi phạm nhân quyền từ năm 1988, thời điểm chế độ Mianma hoàn toàn do quân đội nắm.

Biện pháp trừng phạt gây ra nạn chảy máu chất xám và khiến Ngân hàng thế giới cũng như Ngân hàng châu Á không đầu tư được vào Mianma. Bốn mươi năm lộn xộn chính trị và kinh tế cộng với hơn 20 năm bị trừng phạt đã dẫn đến một nền kinh tế thảm họa, không có nguồn nhân lực, với Tổng sản phấm quốc nội thấp hơn 7 lần so với của Thái Lan và một hệ thống tiền tệ hai lần quy đổi – chỉ còn hiệu lực ở 17 nước trên thế giới – tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng tràn lan có lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước và giới chóp bu có liên quan. Họ hưởng nhiều lợi nhuận từ hệ thống hiện hành và tạo thành trở ngại chính cho công cuộc đổi mới.

Ở một đất nước không có một sự tiếp xúc nào với bên ngoài, Trung Quốc chiếm giữ vị trí thống trị. Mở cửa chính trị và việc các thể thế quốc tế, những yếu tố sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, trở lại không phải không có rủi ro lớn.

Quả thực là do thiếu một hệ thống pháp lý và lập pháp độc lập có khả năng ngăn chặn chủ nghĩa cơ hội thấp hèn, và với tình hình đòi hỏi phải ưu tiên nỗ lực cho ngành y tế, giáo dục và vùng nông thôn, Mianma có thể phải tiến hành công cuộc phát triển cấp tốc các vùng nông thôn, từ đó mang lại lợi nhuận cho một số ông trùm có quan hệ với các tập đoàn tư nhân có khả năng tạo ra bất công sâu rộng.

Với 2.000 km đường biên giới chung với Trung Quốc, nước có các công ty Nhà nước tham gia khai thác gỗ, niken, đồng và khí đốt cũng như xây dựng đường sá và nhà máy điện, Mianma là một quân cờ quan trọng trong bàn cờ của Trung Quốc trong vùng. Nước này đồng thời là đồng minh chính trị của Mianma ở Liên hợp quốc chống lại mọi phê phán của phương Tây từ khi Mianma bị áp đặt lệnh cấm vận. Còn Mianma là nguồn dự trữ tài nguyên, là đối tác thương mại ưu đãi – từ năm 2010 Trung Quốc là nhà cung cấp và khách hàng hàng đầu của Mianma – và là nơi thông thương ra vịnh Bengan cho hàng hóa Trung Quốc và, ngược lại, cho dầu mỏ nhập khẩu và chuyên chở bằng đường ống về Vân Nam.

Nhưng việc Trung Quốc khống chế Mianma ngày càng chặt chẽ cũng có những hạn chế của nó. Trung Quốc đã biến các vùng biên giới, đặc biệt là vùng lãnh thổ của người Wa ở vùng Đông-Bắc, thành căn cứ quyền lực của các doanh nhân Trung Hoa. Họ đầu tư vào một danh sách dài các hoạt động thương mại và khai thác hợp pháp cũng như bất hợp pháp, tranh giành đất đai, xây dựng khách sạn, trung tâm giải trí và sòng bạc với hàng trăm bàn đánh bạc.

Trong cuốn “Where China meets India” (2011), Thant Myint-U, một người Mianma tốt nghiệp trường Đại học Harvard, kể rằng thành phố Mongla, căn cứ cũ của Cộng sản bên bờ sông Mê Công, trở thảnh lãnh địa của một lãnh chúa kinh doanh Trung Quốc tên là Lin Mingxian, có đội quân vũ trang bảo vệ riêng, tiến hành mọi kiểu buôn lậu, song cũng đón khách thuộc giới lãnh đạo Trung Quốc và Mianma đến nghỉ hè.

Năm 2005, hoảng sợ trước hình ảnh xấu về Trung Quốc, Bắc Kinh đưa quân đội đến đóng cửa các sòng bạc và biên giới. Nhưng các cuộc sát phạt đỏ đen vẫn diễn ra trên mạng. Bất kỳ ai ở Trung Quốc cũng có thể đặt cược một triệu USD qua Internet mà không cần phải đến tận xó xỉnh heo hút này ở Mianma.

Tồi tệ hơn nữa là các công ty xây dựng sử dụng hàng nghìn công nhân Trung Quốc xây dựng đập chắn nước cho mình, đông đến nỗi gây ra tình trạng dư thừa năng lực một cách lố bịch, gây tác động xấu đến môi trường khiến dân chúng địa phương phản kháng. Toàn bộ các đập chắn nước đang được xây dựng với hàng tỷ USD đầu tư, nếu hoàn thành, sẽ sản xuất ra một lượng điện lớn gấp 10 lần mức tiêu thụ ở Mianma, tức 20 gigawatt, trong đó phần lớn sẽ được xuất sang Trung Quốc.

Năm 2011, đụng độ vũ trang lại nổ ra giữa quân đội chính phủ và đội quân Kachin độc lập, trong bối cảnh bất an ninh âm ỉ từ khi năm 2010 chính quyền hủy bỏ lệnh ngừng bắn ký năm 1994 cho phép lực lượng Kachin được giữ vũ khí. Mọt số trận chiến diễn ra xung quanh đập nước Myitsone do Trung Quốc xây dựng, chống lại các nhóm Kachin phản đối sự có mặt của người Trung Quốc.

Tháng 9/2011, sau nhiều tuần lễ tranh cãi công khai, Tổng thống dân sự mới của Mianma thông báo dừng việc xây dựng đập nước Myitsone do các công ty Trung Quốc thực hiện trên sông Irrawaddy, trị giá 3,6 tỷ USD. Trong bối cảnh phức tạp đó, do Bắc Kinh sợ liên minh với Nâypiđô đổ vỡ, đại sứ nước này tại Mianma, Lý Quân Hoa, đã gặp bà Aung San Suu Kyi, hai tuần lễ sau chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton. Đó là hành động đầu tiên của Trung Quốc đối với phe đối lập Mianma kể từ 20 năm trơ lại đây. Ba ngày sau, đến lượt Đới Bỉnh Quốc, phụ trách các vấn đề chiến lược, có hàm ngang với Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì, đến gặp các nhà lãnh đạo Mianma.

Theo tờ “Irrawaddi” do một số nhóm ly khai của Mianma sống lưu vong điều hành, quân đội có thể can thiệp với hơn 10.000 người với sự yểm trợ của pháo binh, gây ra làn sóng hàng nghìn người tỵ nạn, song bị Chính phủ Trung Quốc chặn lại ở biên giới. Việc Chính phủ Mianma ngừng xây dựng đập chắn nước có thể cho phép tái khởi động cuộc thương lượng giữa lực lượng dân quân vũ trang từ lâu đòi thiết lập một Nhà nước liên bang với chính phủ và quân đội vốn sợ đất nước tan vỡ.

Quá trình can dự từ lâu của Trung Quốc vào vùng này, sự gần gũi về địa lý, số lượng lớn các dự án công nghiệp và hạ tầng, phát triển trao đổi thương mại, lập trường của Bắc Kinh sẵn sàng can dự với tư cách là nhà hòa giải vào việc tìm kiếm giải pháp cho các vùng đòi ly khai ở biên giới, là những con chủ bài của Trung Quốc. Tuy Mianma mở cửa với Oasinhtơn, song chưa phải Bắc Kinh đã thua cuộc ngay. Sức nặng của những cam kết, tình hình bất ổn định triền miên ở các vùng biên giới, nơi các nhà hòa giải Trung Quốc đóng vai trò cốt yếu, tạo ra một tổng thể liên kết bắt buộc và đáng quan tâm mà Oasinhtơn khó có thể cân bằng được trong thời gian ngắn.

ơng lai Trung Quốc sẽ ra sao?

Ông Gordon G. Chang là tác giả cuốn “Trung Quốc sắp sụp đổ” (The Coming Collapse of China). Trong cuốn sách này, vào giữa năm 2001, ông dự đoán việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mười năm sau sẽ dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một thập kỷ đã trôi qua, song Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn nắm quyền. Ông Gordon G. Chang thừa nhận ông đã lầm khi dự đoán Đảng Cộng sản Trung Quốc sụp đổ vào năm 2011, nhưng ông cho rằng mình chỉ nhầm “có một năm”. Dưới đây là lý giải của ông trên tạp chí “Statafrik”.

Tại sao Bắc Kinh còn sống sót? Trước hết là vì cho dù Chính phủ Trung Quốc, khi gia nhập WTO năm 2001, cố hứa mở cửa nền kinh tế và tôn trọng luật chơi, song Bắc Kinh đã thành công trong việc lẩn tránh nhiều nghĩa vụ của mình. Còn cộng đồng quốc tế hoàn toàn tỏ ra bao dung trước thái độ né tránh của Trung Quốc. Kết quả là Bắc Kinh đã bảo vệ được một phần thị trường trong nước trước sự cạnh tranh của nước ngoài, đồng thời thúc đẩy phát triển xuất khẩu.

Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc cho thấy hiệu quả đáng sợ trong phát triển kinh tế của mình như thế nào. Nước này gần như thành công trong việc lấy lại được mức tăng trưởng hai con số mà họ từng có trước thời kỳ gần như suy thoái vào cuối những năm 1990.

Thời hoàng kim đã qua ri

Nhiều chuyên gia cho rằng Trung Quốc sẽ có thể duy trì được mức tăng trưởng như vậy trong một thời gian không xác định. Ông Justin Yifu Lin, nhà kinh tế trưởng thuộc Ngân hàng thế giới (WB), nghĩ rằng Trung Quốc có thể tăng trưởng 8%/năm trong ít nhất 20 năm nữa. Còn Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán nền kinh tế nước này sẽ vượt nền kinh tế Mỹ từ nay đến năm 2016.

Nhưng không nên tin điều đó. Trung Quốc gặt hái được nhiều thành quả tốt hơn các nước khác vì nước này có được một chu kỳ siêu dài ít nhất ba thập kỷ nhờ ba yếu tố. Trước hết là chính sách cải cách và mở cửa do Đặng Tiểu Bình chủ trương và đã làm biến đổi đất nước. Rồi kỷ nguyên Đặng Tiểu Bình trùng lặp với thời kỳ cuối Chiến tranh Lạnh giúp Trung Quốc xóa bỏ được rào cản chính trị đối với thương mại quốc tế. Cuối cùng

là tất cả các yếu tố trên diễn ra khi Trung Quốc tận dụng được “thành quả dân số” và từ đó khai thác được mức tăng trưởng khác thường về nhân lực.

Nhưng thời kỳ hoàng kim của Trung Quốc đã qua rồi. Các điều kiện từng giúp nước này trỗi dậy đã không còn trong những năm gần đây hay đang nguội tàn. Thứ nhất, Đảng Cộng sản Trung Quốc quay lưng lại với các chính sách tiến bộ của Đặng Tiểu Bình. Kỷ nguyên Hồ Cẩm Đào, nhà lãnh đạo hiện nay, trên thực tế được đánh dấu bằng sự thụt lùi. Đặc biệt là từ năm 2008, người ta thấy nền kinh tế Trung Quốc bị tái quốc hữu hóa một phần và vận hội đối với các doanh nghiệp nước ngoài đã tiêu tan.

Bùng n chm dứt cùng với sự sụp đ của các thị trường chứng khoản

Chẳng hạn, Bắc Kinh siết chặt điều kiện mua đối với người nước ngoài, dựng lên hàng rào mới như quy định về “sáng tạo trong nước” và đối xử không tốt với các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, như Google. Bằng cách tăng cường vai trò của doanh nghiệp Nhà nước, còn được gọi là “nhà vô địch quốc gia”, và bỏ qua các loại hình doanh nghiệp khác, Hồ cẩm Đào từ bỏ chủ nghĩa thực dụng kinh tế, yếu tố đã làm nên thành công của Trung Quốc.

Thứ hai, bùng nổ thế giới trong hai thập kỷ gần đây đã chấm dứt vào năm 2008 khi các thị trường chứng khoán thế giới sụp đổ. Thời kỳ ưu ái bất thường, khi cộng đồng quốc tế định đưa Trung Quốc hội nhập vào hệ thống và như vậy, bỏ qua các chính sách yếu kém của nước này, đã chấm dứt với những vụ việc ồn ào trong năm 2008.

Các nước từ nay đều muốn xuất khẩu nhiều hơn và, trong thời thịnh hành chủ nghĩa bảo hộ và thương mại có điều tiết, Trung Quốc sẽ không có khả năng dùng xuất khẩu làm cơ sở để vươn tới sự thịnh vượng như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào cuối những năm 1990. Trung Quốc phụ thuộc vào thương mại quốc tế nhiều hơn so với gần như tất cả các nước khác. Căng thẳng thương mại hay suy giảm về nhu cầu trên thế giới sẽ khiến Trung Quốc bị thiệt hại nhiều hơn các nước khác. Như vậy, Trung Quốc có thể sẽ trở thành nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng trong khu vực đồng euro.

Thứ ba, trong kỷ nguyên cải cách, nếu Trung Quốc tận dụng được một trong những bước phát triển dân số mạnh mẽ nhất thì sắp tới sẽ phải chịu một trong những bước thụt lùi tệ hại nhất. Các nhà dân số học Trung Quốc cũng như nước ngoài dự báo nhân lực của nước này sẽ chững lại yào năm 2013, có thể vào năm 2014, nhưng hệ quả của tình hình này đã bắt đầu xuất hiện: tiền lương tăng và xu hướng này rốt cuộc sẽ làm xói mòn tính cạnh tranh của các nhà máy Trung Quốc. Điều nghịch lý là ở Trung Quốc không có nhiều người có khả năng chuyển ra khỏi thành phố, vào làm việc ở nhà máy và giúp nền kinh tế vận hành. Dân số có thể không phải là định mệnh, song đang dựng lên rào cản đối với tăng trưởng.

Những chỉ so xấu

Không những nền kinh tế Trung Quốc không còn được hưởng ba tình thế thuận lợi nói trên nữa, mà còn phải chữa chạy các căn bệnh khác (lạm phát và bong bóng cổ phiếu) xuất hiện sau khi Bắc Kinh tung ra kế hoạch tái khởi động kinh tế với quy mô quá lớn trong thời kỳ 2008-2009, kế hoạch lớn chưa từng có trên thế giới (hơn 1.000 tỷ USD chỉ trong năm 2009).

Từ cuối tháng 9/2011, các chỉ số kinh tế – chỉ mới kể đến các khâu tiêu thụ điện, nhu cầu điện, xuất khẩu tăng, bán xe hơi và giá nhà – cho thấy nền kinh tế đang chững lại và không phát triển được nữa. Tiền đã bắt đầu rời bỏ đất nước ra đi vào tháng 10/2011 và dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh suy giảm từ tháng 9/2011.

Kết quả là hoặc sẽ dẫn đến đổ vỡ, hoặc điều có nhiều khả năng xảy ra hơn là đi xuống trong nhiều thập kỷ, giống như Nhật Bản. Dầu sao, rối loạn kinh tế cũng sẽ trùng với rối loạn xã hội ngày càng tăng ở Trung Quốc.

Các phong trào phản kháng không những nổ ra ngày càng nhiều – với 250.000 vụ xảy ra trong năm 2010 theo con số chính thức – mà còn ngày càng bạo lực hơn, như làn sóng nổi loạn, nổi dậy, phá phách và khủng bố mới đây cho thấy.

Thay đi xã hội diễn ra nhanh chóng

Do không có khả năng xoa dịu sự bất bình trong xã hội, Đảng Cộng sản Trung Quốc chọn cách chơi con bài đàn áp, với mức độ chưa từng thấy trong hai thập kỷ này. Cảnh sát và quân đội được triển khai tại các thành phố và làng mạc và gân như tất cả các hình thức thông tin và truyền thông đều bị kiểm soát. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu “kiểm soát” và “hạn chế” được các cư dân mạng đánh giá là những từ thông dụng nhất ở Trung Quốc trong năm 2011.

Thái độ không khoan nhượng đó cho đến lúc này giúp chế độ ổn định được, song không thể kéo dài trong một xã hội ngày càng hiện đại, trong đó phần lớn dân chúng dường như không còn tin rằng một Đảng – Nhà nước vẫn là phương thức hay nữa. Bắc Kinh rõ ràng đã thua trận chiến tư tưởng.

Thay đổi xã hội hiện đang diễn ra nhanh chóng ở Trung Quốc, vấn đề đối với Đảng cầm quyền là cho dù người dân Trung Quốc nhìn chung không có ý định làm cách mạng, song biểu hiện bất bình của xã hội có thể dẫn đến hệ quả cách mạng trong thời kỳ cực kỳ nhạy cảm này.

Năm 2012, ở đâu đó tại Trung Quốc, trong một ngôi làng nhỏ hay tại một thành phố lớn, một vụ việc nhỏ sẽ trở nên khó kiểm soát và có thể lan truyền với tốc độ cao. Dù họ ở đâu, người Trung Quốc cũng có cùng tư tưởng: không nên ngạc nhiên nếu họ có phản ứng giống nhau. Họ đã từng đồng lòng hành động – như hồi tháng 6/1989, rất lâu trước khi xuất hiện truyền thông xã hội, các cuộc biểu tình đã nổ ra trong khoảng 370 thành phố ở Trung Quốc, mà không hề có sự phối hợp nào trong cả nước.

Ví dụ Mùa xuân Arập

Hiện tượng tràn qua Bắc Phi và Trung Đông trong năm 2011 cho chúng ta thấy chính bản chất của thay đổi chính trị cũng đang thay đổi trên toàn thế giới, làm mất ổn định các chế độ chuyên chế xem ra có vẻ ổn định nhất. Trung Quốc trong bất luận trường hợp nào cũng không thoát khỏi làn sóng nổi dậy đó của dân chúng, như phản ứng tàn bạo của chính quyền trước cuộc cách mạng “hoa Nhài” ở địa phương đã cho thấy. Đảng Cộng sản Trung Quốc trước đây hưởng lợi từ toàn cầu hóa, nay đang phải gánh chịu hậu quả của quá trình đó.

Liệu Trung Quốc có vì thế mà sụp đổ không? Các chuyên gia khoa học chính trị, những người thường thích giải thích những điều không thể giải thích nổi, nói rằng để một chế độ sụp đổ cần hội tụ đầy đủ một loạt các yếu tố, và hai yếu tố quan trọng nhất là một chính phủ bị chia rẽ và một phe đối lập mạnh.

Trong khi phải đương đầu với ngày càng nhiều thách thức, Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành một cuộc chuyển giao chính trị trong nhiều năm và như vậy chuẩn bị không đầy đủ để đối mặt với các vấn đề gặp phải. Đã xuất hiện chia rẽ trong giới tinh hoa của Đảng và thái độ thờ ơ của các nhà lãnh đạo Đảng trong những tháng gần đây – trái ngược hẳn với phản ứng nhanh nhạy của họ khi đối mặt với rối loạn kinh tế năm 2008 – cho thấy tiến trình ra quyết định của Bắc Kinh đang gặp trục trặc. Như vậy, Chính phủ Trung Quốc rõ ràng đang bị chia rẽ.

Còn về sự tồn tại của phe đối lập, Liên bang Xôviết sụp đổ mà gần như không cần phải có một phe đối lập. Trong thời đại đầy biến động này, Chính phủ Trung Quốc có thể tự giải tán như các chế độ độc tài ở Tuynidi và Ai Cập. Như “cuộc cách mạng xanh” ở làng Ồ khảm, thuộc tỉnh Quảng Đông, hồi tháng 12/2011 cho thấy, dân chúng có thể nhanh chóng tổ chức lại, họ đã nhiều lần làm như vậy từ cuối những năm 1980. Trong thời của các cuộc cách mạng không cần thủ lĩnh, không còn cần thiết phải có một bộ máy chạy trơn tru mới lật đổ được một chế độ.

Cách đây không lâu, mọi thứ đều tốt đẹp với các viên quan lại ở Bắc Kinh. Nhưng lúc này không có gì còn tốt đẹp nữa./.

Không có nhận xét nào: