Pages

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Rút tỉa kinh nghiệm, xét tình hình: Chúng ta phải làm gì

Nước chúng ta hiện nay vẫn chưa độc lập, lại không có tự do dân chủ, mặc dầu cuộc đấu tranh cho độc lập, cho tự do, dân chủ đã bắt đầu từ lâu. Vậy rút tỉa kinh nghiệm quá khứ, xét tình hình thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung cộng, vì 2 nước này có liên quan nhiều tới Việt Nam, chúng ta phải làm gì để đạt 2 mục đích trên.
A. Rút tỉa kinh nghiệm quá khứ:
Các tổ chức đấu tranh giành độc lập đi từ thái cực này đến thái cực khác. Thật vậy, người ta có thể nói hai người tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giành độc lập Việt Nam là Phan Bội Châu (1867-1940) và Hồ Chí Minh (1890-1969). Hai người là 2 thái cực từ tính tình cá nhân cho tới đường lối chính trị.
Một người thì gian manh, giảo quyệt, ác ôn côn đồ, làm bất cứ việc gì, trả bất cứ giá nào để đạt được mục đích. Một người, nếu không nói là ngây thơ, thì là quá hiền lành, chỉ biết lấy tấm lòng tốt và lòng yêu nước làm kim chỉ nam, đi đến chỗ dễ bị lừa. Ở đây tôi không phải là sử gia, tôi không thể đi vào nghiên cứu lịch sử, nhưng tôi tin ở giả thuyết là họ Hồ đã bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Chính Hồ Chí Minh đã nói về Phan bội Châu: “Cụ đã già và quá thành thật.”

Về đường lối chính trị, thì chúng ta nhớ là lúc đầu cụ Phan chủ trương duy trì chế độ quân chủ, tôn Cường Để lên làm minh chủ. Cụ cũng nghĩ đến việc cần có sự hỗ trợ của quốc tế, nên đã sang Nhật, tìm cách gửi người qua Nhật học. Nhưng sau đó Nhật ký hiệp ước với Pháp, trục xuất cụ sang Thượng Hải; và chính tại đây, năm 1912, cụ cũng đã thay đổi lập trường là đi theo chế độ dân chủ. Tuy nhiên vận động một vài nước chưa đủ, hơn thế nữa, cụ chết sớm, vừa mới lúc thế chiến thứ Hai bắt đầu, đến khi thế chiến chấm dứt, tình hình chín mùi, thì họ Hồ, lợi dụng thời cơ, hoàn toàn theo Đệ Tam quốc tế Cộng sản, được tổ chức này giúp đỡ, nổi lên cướp chính quyền.
Thật vậy, Hồ Chí Minh thì nhất nhất theo ngoại bang, bán linh hồn cho cộng sản Mác Lê, mặc dầu chủ thuyết này chỉ là cặn bã của văn hóa tây phương. Những nhà văn hóa hạng nhất tây phương như đại văn hào Victor Hugo có viết về cộng sản như sau:
“Bắt con đại bàng thành con chim chích, biến con thiên nga thành con dơi, bỏ tất cả mọi người trong một giỏ, rồi xóc, để ai cũng như ai; đó là cộng sản. Và đó cũng là điều mà tôi không thích.”
Chính Proudhon, người đã từng bút chiến với Marx, và Marx cũng đã khen ông là người có những cái nhìn sắc bén về kinh tế, đã chỉ trích lý thuyết của Marx: “Lý thuyết này, nếu thực hiện thì trở thành con sán lãi của xã hội.”
Ngày hôm nay, sau gần một thế kỷ thực hiện, chúng ta thấy rất rõ điều này. Lý thuyết của Marx, ngoài việc giết cả trăm triệu người, còn là một con sán lãi hút hết sức sống của dân. Chỉ cần một thí dụ nhỏ: Tiền thuế là do từ dân, nay với chế độ cộng sản, chủ trương độc đảng, ngoài chính quyền, còn có đảng, ăn lương còn hơn chính quyền. Đây chính là con sán lãi. Đấy là chưa kể tham nhũng, hối lộ, tài sản của toàn dân được gom thu vào tay một thiểu số là đảng đoàn cán bộ.
B. Xét tình hình Hoa Kỳ, Trung Cộng và Việt Nam
Trong suốt thế kỷ 20 vừa qua, không ai có thể chối cãi rằng Hoa Kỳ là đại cường quốc, chiến thắng Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến, rồi Chiến tranh Lạnh. Được như vậy không những là nhờ Hoa Kỳ có một thể chế chính trị tốt, một nền kinh tế giàu mạnh, một quân đội được trang bị bởi những vũ khí tân tiến, khoa học nhất, mà là còn nhờ quan niệm đặt ưu tiên chính trị lên quân sự và những lãnh vực khác, cùng chiến lược ngoại giao, mà đôi khi có người ghét, đó là thủ thuật biến bạn thành thù, đổi thù thành bạn.
Chúng ta cùng nhau xét 2 điểm trên về Hoa kỳ và đề cập đến một số dữ kiện lịch sử của thế kỷ 20, trong đó có liên quan đến Việt Nam.
I) Quan niệm đông tây về chính trị, quân sự, đặt ưu tiên chính trị trên quân sự.
Thật ra đây không phải là quan niệm riêng của Hoa kỳ, Tôn Tử, cách đó cả bao ngàn năm, cũng có viết:
“Phàm cách dùng binh, lành nước là hạng trên, vỡ nước là hạng kém… Ấy cho nên, trăm trận đánh, trăm trận được, không phải là người giỏi trong những người giỏi… Không đánh mà làm khuất phục quân của người, ấy là người giỏi trong những người giỏi… Cho nên sự thắng của người thiện chiến không có cái tiếng khôn ngoan, không có cái công mạnh mẽ” (Tôn Ngô Binh pháp – do Ngô văn Triện dịch- trang 51).
Luận về tướng, ông nói đến 5 đức tính, trong đó ông đặt chữ trí (sự hiểu biết), tín (lòng tín nhiệm), nhân (lòng thương người) trước chữ dũng (can đảm) và chữ nghiêm (nghiêm trang).
Ngô Khởi cũng là một nhà tư tưởng quân sự người Tàu, cũng sinh vào thời Chiến quốc (403 – 256 trước Tây lịch), có viết:
“Cho nên rằng, các chiến quốc trong thiên hạ, năm trận thắng thì tai vạ, bốn trận thắng thì tồi tệ, ba trận thắng thì làm nên nghiệp bá, hai trận thắng thì làm nên nghiệp vương, một trận thắng thì làm nên nghiệp đế. Ấy cho nên, những người năng thắng mà được thiên hạ thì ít, chỉ mất thì nhiều.” (Sách đã dẫn – trang 269).
Ngay ở Việt Nam, đức Trần Hưng Đạo, năm sinh được phỏng đoán là 1232, ngày mất là 3/9/1300, người ba lần chiến thắng quân Mông Cổ, vào năm 1257, 1284 và 1287, đạo quân mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, thế kỷ thứ 13, cũng có viết:
“Khí lượng của tướng, lớn nhỏ khác nhau. Tướng mà che điều gian, giấu điều họa, không nghĩ đến quần chúng oán ghét, đó là tướng chỉ huy mười người. Tướng mà dậy sớm, khuya nằm, lời lẽ kín đáo, đó là tướng chỉ huy được trăm người. Tướng mà ngoài mặt hăm hở, trong lòng ân cần, biết người khó nhọc, thương kẻ đói rét, đó là tướng chỉ huy được vạn người. Tướng mà gần người hiền, tiến người tài, ngày thường cẩn thận, thành thật, rộng rãi, giỏi việc dẹp loạn, đó là tướng chỉ huy được mười vạn người. Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người, coi bốn bể như một nhà, đó là tướng chỉ huy cả thiên hạ, không ai địch được.” (Trần hưng Đạo – Binh thư yếu lược – trang 15 – nhà xuất bản Quê Mẹ 88- Paris).
Qua những dẫn chứng trên, chúng ta thấy Tôn Tử, Ngô Khởi và Trần Hưng Đạo đều nhấn mạnh ưu tiên của chính trị trên quân sự. Người tướng mà Trần Hưng Đạo chủ trương là dùng nhân ái đối với kẻ dưới, giữ chữ tín với láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người, đó chính là một nhà chính trị vậy.
Người ta có thể nói từ Hồ Chí Minh đến tướng tá cộng sản con cháu đều là những tướng che điều gian, dấu điều họa, không nghĩ đến quần chúng oán ghét.
Trước khi chết, Trần Hưng Đạo còn trăn trối với vua Tần Anh Tông:
“Làm thế nào để thu hút được quân lính như cha con một nhà mới có thể dùng để chiến thắng được. Và phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ, bền gốc, đó là thượng sách giữ nước, không còn gì hơn.”
Ở điểm này chúng ta thấy giới lãnh đạo cộng sản, coi dân như cỏ rác, pha phí sức dân, lôi cuốn, bắt buộc họ lao đầu vào biết bao cuộc chiến, thêm vào đó cộng sản Việt Nam còn coi các nước láng giềng như thù nghịch, trường hợp Cam Bốt, Lào, nếu so sánh Trần Hưng Đạo với giới lãnh đạo cộng sản, từ Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, đến con cháu sau này, sự khác biệt cao thấp quả là một trời một vực. Chính vì vậy mà nước Việt Nam hôm nay, bị tụt hậu, bị coi thường, không những bởi những nước chung quanh, mà cả trên trường quốc tế.
Nước Việt Nam có một nền văn hóa cao rất sớm, ngay từ thời nhà Lý (1010 – 1225), trước nhà Trần (1225 – 1400), Việt Nam đã có đại học, vì Quốc tử giám tương đương với đại học, thế mà ngày hôm nay, đại học Hà Nội, được coi là đại học nhất Việt nam, lại bị xếp vào hàng 80, trong 80 đại học của các nước Đông Nam Á, ngay vào thời Pháp thuộc, rồi tới thời Việt Nam Cộng hòa, đại học Hà nội, rồi đại học Sài gòn, được coi là đại học khá nhất trong vùng.
Nguyên sự kiện nạn phá thai, nạn trẻ em phạm pháp, nạn tham nhũng hối lộ, Việt Nam là một trong những nước đứng đầu trên thế giới. Tại sao?
Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chính, đó là Việt Nam bị cai trị bởi những người lãnh đạo vọng ngoại, thiếu đầu óc chính trị, không thương dân, những kẻ du thử, du thực, giết cha, chém chú, như Đỗ Mười, một anh thiến heo, Phạm Hùng, một anh giết người, Nguyễn tấn Dũng, một anh chăn trâu, du kích.
Gần đây, có sự kiện một số giới trẻ Việt Nam tôn sùng thần tượng một ca sĩ Nam Hàn, đã lên hôn cái ghế ngồi của người này.
Giới báo chí Việt Nam bất bình, phản đối, cho rằng tuổi trẻ Việt Nam thác loạn, hèn hạ, mất định hướng. Nhưng họ không suy nghĩ sâu xa. Đó chỉ là hậu quả tất yếu của chính sách vọng ngoại, ngu dân của cộng sản.
Hồ Chí Minh thì thản nhiên tuyên bố: “Tôi không có tư tưởng gì cả, tư tưởng của tôi đã có Staline và Mao trạch Đông nghĩ hộ.”
Một văn nô cộng sản thì làm bài thơ, trong đó có câu:
“Hôn cho anh nền tảng đá công trường, Nơi vĩ đại Lénine thường dạo bước.”
Ngày hôm nay họ Hồ được tôn lên làm thánh, thơ của văn nô nọ vẫn được dạy trẻ em trong trường. Một số trẻ em Việt Nam hôn nghế ngồi của một ca sĩ Nam Hàn là chuyện bình thường, tất yếu, vì ngày xưa cha ông thì hôn tảng đá, ngày hôm nay thì hôn ghế.
Hôn nghế người ta ngồi và hôn tảng đá người ta giẵm chân, có gì khác nhau, có chi là điều lạ, đó là hậu quả tất yếu của một đường lối chính trị và một nền giáo dục. Có chi mà báo chí ngạc nhiên và bất bình!
Nước Việt Nam, từ ngày lọt vào tay cộng sản, nếu xa là năm 1945, nếu gần là miền Nam vào năm 1975; cộng sản, bằng bất cứ giá nào cũng phải cưỡng chiếm miền Nam bằng vũ lực, không nghĩ đến giải pháp chính trị. Sau khi cưỡng chiếm được thì đánh tư bản, mại sản, đổi tiền, người dân đã phải thốt lên: “Năm đồng đổi lấy một xu. Người khôn đi học, thằng ngu làm thầy.”
Chỉ cần một câu này, nó đã đủ nói lên thảm trạng, nỗi đau đớn, tủi nhục, bất hạnh Việt Nam, tiếng khóc thầm trong lòng của mỗi người Việt Nam, từ nam chí bắc, tới hải ngoại, vì bị cai trị bởi những kẻ không có đầu óc chính trị nhìn xa, chỉ có đầu óc vũ biền, dùng dao găm, mã tấu, dùng súng ống để cướp đoạt chính quyền, để đe dọa, cai trị dân, không biết đặt ưu tiên của chính trị lên quân sự và trên những lãnh vực khác.
Ở tây phương, những người như Clausewitz cho rằng chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị hay Georges Clémenceau nghĩ rằng chiến tranh quá quan trọng không thể trao cho quân sự, cũng cùng quan niệm đó.
Tuy nhiên giới lãnh đạo lưu tâm đến quan niệm này có tính cách hệ thống và liên tục, phải nói đến giới lãnh đạo Hoa kỳ
II) Thủ thuật biến bạn thành thù, đổi thù thành bạn trong chiến lược ngoại giao của Hoa Kỳ
Chúng ta hãy quay ngược dòng lịch sử, để xem xét chiến lược ngoại giao này.
Nhiều người cho rằng mộng bá chủ, trở thành đại cường quốc của Hoa kỳ mới bắt đầu với Đệ Nhất thế Chiến (1914 – 1918). Thực ra, thì nó đã bắt đầu ngay từ thời gian lập quốc, bằng chứng là trên tờ giấy bạc 1$, có hình, mặt bên này là Washington, bên kia là hình kim tự tháp, với hàng chữ ở dưới: “Novus ordo seclorum” có nghĩa là “Trật tự thế giới mới”, đó là hình bên trái, còn hình bên phải là con ó, một chân cầm cành dương liễu, một chân cầm bó tên, có nghĩa là: Để thực hiện trật tự này, thì nên làm: lúc mạnh, lúc mềm, lúc dùng phương pháp quân sự, lúc dùng phương pháp chính trị, hòa bình.
Hơn thế nữa, còn có người cho rằng, mộng làm bá chủ có từ trước thời lập quốc, với những người trên chiếc “Tàu vượt biển Mayflower”, mà ngày hôm nay dân Hoa kỳ tưởng niệm như ngày “Tạ ơn Chúa” (Thanksgiving day).
Thật vậy, khoảng hơn 100 người Anh, phần lớn là những người tin đạo, nhưng bị ngược đãi bởi chính quyền và tôn giáo chính thống, Anh quốc giáo (Anglicanisme), đã tách rời ra, mà người sau gọi là (Pèlerins séparatistes) những Người Phân chia, là chủ vào khoảng 40 gia đình, đã tìm cách vượt biên, đi tìm một thế giới mới. Những người này đã cùng nhau làm ra một Khế Ước mới (Mayflower Compact), theo đó, họ sẽ cùng nhau làm nên một quốc gia mới không có sự phân chia, bạc đãi tôn giáo, không phân chia chủng tộc, không có sự cấm đoán những quyền căn bản của con người. Họ đã tới bờ biển Cod, vào ngày 26/12/1620, lập nên một thành phố mới, mang tên Nước Anh Mới (Nouvelle Angleterre), tức là vùng New Plymouth, ngày hôm nay, sau cuộc hành trình sóng gió, khổ sở và chết chóc. Dân Hoa Kỳ làm lễ “Cám ơn Thượng Đế – Thanksgiving” là vì vậy.
Đây có thể nói là những nhà lập quốc đầu tiên của Hoa Kỳ, với ước mơ là làm nên một nước dân chủ và quảng bá mô hình tổ chức nhân xã này ra rộng lớn. Công việc này đã được thực hiện với những nhà lập quốc tiếp theo.
Có người đưa ra thuyết Monroe, theo đó: “Châu Mỹ là của người Mỹ”, cho rằng quan niệm và chủ trương của Hoa kỳ là không can thiệp ra nước ngoài là không đúng.
Không phải hoàn toàn như vậy. Monroe (1758 – 1831), tổng thống thứ 5 của Hoa kỳ, đã đưa ra chủ thuyết này. Nhưng trước khi là tổng thống, ông đã từng là nhà ngoại giao, ngoại trưởng, đã từng thương thuyết ở Paris, để mua tiểu bang Lousiane của Pháp, rồi mua tiểu bang Floride của Tây ban nha (L’Espagne). Mục đích của Monroe là như theo Ngô Khởi, một nhà tư tưởng chiến lược lớn của Tàu và của cả thế giới, theo đó:
“Bất hòa trong nước thì không thể ra quân, bất hòa trong quân thì không thể ra trận, bất hòa trong trận thì không thể tiến chiến, bất hòa trong chiến thì không thể chiến thắng.”
Người ta không biết Monroe có đọc Ngô Khởi không, nhưng hành động của ông là theo tư tưởng Ngô Khởi: Phải ổn định tình hình quốc nội, phải ổn định tình hình châu Mỹ, sau đó mới tính đến chuyện chiến thắng ở bên ngoài.
Monroe tìm cách ổn định những đất đai đã chiếm của người Da Đỏ, mua phần đất của những người Âu châu. Chính vì lẽ đó mà có thuyết này, nhưng chính là để sửa soạn chinh phục, chiến thắng mai sau.
Đó là chuyện xa, nhưng chuyện gần của thế kỷ 20, về chiến lược ngoại giao với thủ thuật: “Biến bạn thành thù, đổi thù thành bạn”, người ta phải nói đến 2 hành động lớn bắt đầu trong chiến lược ngoại giao là can thiệp vào Đệ Nhất thế Chiến (1914-1918), và Hội nghị Hoa Thịnh Đốn 1921-1922, về vấn đề lực lượng hải quân và hàng hải.
Hội nghị Hoa Thịnh Đốn sau Đệ Nhất Thế Chiến là nhằm giảm bớt vũ khí hải quân ở vùng Viễn Đông (l’Extreme Orient) giữa Hoa Kỳ, Anh và Nhật, sau đến một Hiệp ước bảo đảm hỗ tương về hải quân giữa Anh, Pháp, Hoa Kỳ và Nhật, cùng sự bảo đảm độc lập của Tàu, yêu cầu Nhật trao trả phần đất Chia Chou cho Tàu. Với Hội nghị này, Hoa kỳ muốn xác định mình như một cường quốc hải quân.
Đệ Nhất Thế Chiến bắt đầu vào ngày 28/07/1914 tới 11/11/1918 giữa 2 phe, phe Trục gồm đế quốc Đức, đế quốc Áo Hung, và phe đế quốc Pháp, đế quốc Anh và đồng minh. Tôi không thể đi vào chi tiết trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ nói tới sự can thiệp của Hoa Kỳ bên cạnh Anh, Pháp.
Vào ngày 7/5/1915, Tham mưu Đức nghĩ rằng phải diệt nguồn tiếp liệu cho Anh, Pháp, đã ra lệnh cho thủy lôi phá hủy tàu Louisiana của Hoa Kỳ, sau đó lại tiếp tục trở lại ngày 1/2/1917. Sau khi cắt đứt ngoại giao với Đức ngày 3 tháng 2, thì ngày 6/04 /1917, Thượng Viện Hoa kỳ bỏ phiếu tham chiến bên cạnh Anh, Pháp.
Qua hành động này, chúng ta thấy rõ là Hoa kỳ đã chọn bạn là Anh, Pháp và kẻ thù là đế quốc Đức, đế quốc Áo Hung cùng đồng minh của 2 đế quốc này.
Hành động can thiệp của Hoa Kỳ đã làm lệch cán cân chiến tranh, nghiêng về phía Anh, Pháp, mặc dầu trên chiến trường quân sự, sau khi Lénine cướp chính quyền, ký hiệp ước ngưng chiến với Đức, nhượng cho Đức 1/3 đất đai về canh nông và kỹ nghệ, cho phép Đức không bận rộn về mặt trận phía đông với Nga, rút 700 000 quân từ mặt trận này về tăng cường mặt trận phía tây với Pháp, mặt trận chính.
Tuy nhiên, về chính trị thì Đức thua. Điều này chứng tỏ câu của Clausewitz: “Chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị bằng phương tiện khác” (La guerre est la continuation de la polique par d’autres moyens), cũng như câu nói của Georges Clémenceau, một tác nhân chính trong chiến thắng Đệ Nhất Thế Chiến: “Chiến tranh là điều gì quá quan trọng không thể để trao cho quân sự” (La guerre est trop sérieuse pour être confìée aux militaires).
Chúng ta thấy ngay vấn đề quyết định tham chiến, Hoa kỳ quyết định rất trễ, mãi gần đến giữa năm 1917, mới quyết định. Khi quyết định, Hoa kỳ, dưới thời của tổng thống Wilson, đã mang mộng xây dựng một trật tự thế giới mới, qua bài diễn văn 12 điểm của ông, qua việc chủ trương xây dựng Hội Quốc Liên (Socìté des Nations), tiền thân của Liên Hiệp quốc sau này.
Tuy nhiên, sau khi chiến tranh chấm dứt, Hoa Kỳ nhận thấy 2 đế quốc Anh Pháp còn mạnh, mộng trật tự thế giới mới chưa thể thực hiện, phải làm cho Âu châu, nhất là Anh Pháp phải yếu thêm. Chính vì vậy mà Hoa Kỳ mặc dầu là nước chủ trương thành lập Hội Quốc Liên, lại không phê chuẩn hiệp ước này, làm cho tổ chức này yếu hẳn đi, mà có người nói là một trong những nguyên nhân chính đưa đến Thế Chiến thứ Hai.
Mặc dầu trên nguyên tắc Pháp, Anh vẫn là bạn của Hoa Kỳ, nhưng trên thực tế là thù, và thù cũ Đức trên thực tế trở thành bạn, vì Hoa Kỳ ngầm giúp Đức, tăng cường buôn bán. Hoa kỳ còn ngầm giúp ngay cả chế độ cộng sản của Lénine. Nhà báo viết quyển sách “Mười ngày Làm Rung chuyển Thế giới” (Les Dix Jours qui ébranlèrent le monde), John Reed, được “nâng niu” bởi Lénine, là một bằng chứng cụ thể.
Quả như điều mong muốn và dự đoán của Hoa Kỳ, Âu châu lại lâm vào hoàn cảnh các quốc gia “Cắn quái lẫn nhau”, nhất là từ khi Lénine thành lập Đệ Tam quốc tế Cộng Sản, năm 1919, nhằm xuất cảng “Cách mạng Cộng sản”, từ khi đảng Phát xít của Mussolini lên nắm quyền ở Ý, cuối năm 1922, rồi Hitler lên nắm quyền năm 1933, ở Đức.
Và chuyện sẽ đến, phải đến: Đại Chiến Thứ Hai (1939-1945) xảy ra.
Trong cuộc thế chiến này, thủ thuật thay đổi bạn và thù của Hoa Kỳ lại tái diễn. Anh Pháp trở lại bạn, có thêm là Liên Sô. Phe Đức, Ý, Nhật trở nên thù.
Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, Hoa kỳ lại thay đổi bạn và thù. Đức, Nhật, Ý nay trở thành bạn, được giúp đỡ trong chương trình Marshall, tất nhiên có cả Anh, Pháp. Liên Xô và Trung Cộng sau này trở thành thù, trong thời gian Chiến tranh lạnh, từ cuối thế Chiến đến khi Liên Xô sụp đổ cuối năm 1990.
Tuy nhiên, trong thời gian Chiến tranh Lạnh, lúc đầu Hoa Kỳ nhắm vào Liên Xô là thù chính, sau đó, nhắm vào Trung Cộng từ khi Mao lên nắm quyền năm 1949, là thù chính, biến thù phụ Liên Xô, đôi khi thành đồng minh. Nhưng từ năm 1972, khi có cuộc gặp gỡ giữa Mao và Nixon, thì Trung Cộng lại trở thành thù phụ và hơn thế nữa thành đồng minh, Liên Xô trở thành thù chính cho tới khi sụp đổ.
Chiến thuật đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn của Hoa Kỳ, mà một trong những nạn nhân chính là chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Người ta có thể nói từ năm 1968, khi Nixon lên nắm quyền ở Hoa Kỳ, chủ trương rút quân khỏi miền Nam, đi đến Hiệp định Paris 1973, thì trên thực tế, Chính quyền miền Nam đã trở thành “thù” của Hoa Kỳ.
Việt Nam hiện nay vẫn đi theo chế độ cộng sản, chủ trương độc đảng, độc tài, một chế độ mà gần như toàn thế giới lên án. Việt Nam cộng sản, ngày xưa thì hoàn toàn lệ thuộc vào Liên Xô, nay thì hoàn toàn lệ thuộc vào Tàu, nhất là từ ngày có Hội nghị Thành đô, giữa cộng sản Việt Nam và cộng sản Tàu, vào tháng 3/1990. Cộng sản Tàu đã bỉ mặt cộng sản Việt Nam bằng cách không tiếp ở thủ đô, mà là ở một quận huyện tỉnh nhỏ, không được phép đi máy bay, mà phải đi đường bộ. Đặng Tiểu Bình nói là tiếp phái đoàn cộng sản Việt Nam lúc đầu, nhưng sau đó không thèm tiếp, mà còn tuyên bố: “Cộng sản Việt nam là phường ăn cháo đái bát. Tôi không muốn gặp.”
Có lẽ Việt Nam chưa bao giờ có một giới lãnh đạo hèn hạ và làm mất quốc thể như cộng sản Việt Nam.
Từ đó cho tới nay, Việt Nam hoàn toàn bị lệ thuộc Tàu cộng, tất cả những quyết định quan trọng của Việt Nam đều có sự phê chuẩn của Tàu. Việt Nam không những bị lệ thuộc về chính trị ngoại giao, mà còn bị lệ thuộc về kinh tế và văn hóa: hàng Trung Cộng tràn ngập thị trường Việt Nam, phim ảnh Trung cộng bày bán ở khắp hang cùng, ngõ hẻm.
Giới lãnh đạo Trung Cộng đã biến giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam thành ra xác Việt, nhưng hồn Tàu, hành xử như những quan thái thú xưa kia. Đây là một chính sách thuộc địa vô cùng thâm độc: dùng người bản xứ cai trị người bản xứ, theo lệnh của ngoại bang.
Theo hiến pháp Việt Nam thì đảng cộng sản là đảng độc quyền lãnh đạo. Việt Nam thường nói là mong muốn có quan hệ ngoại giao với tất cả những quốc gia trên thế giới, nhưng thực tế, và đây là chỉ thị ngầm ngoại giao, đó là đặt ưu tiên ngoại giao với những nước cộng sản còn lại, trong đó có Trung Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba, vì như các cụ xưa nói: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”; loại người nào thì chơi với loại người đó. Theo hiến pháp cộng sản, thì chức vị Tổng Bí thư hay Chủ tịch Đảng Cộng sản, là chức vị cao nhất của nước cộng sản đó. Tuy nhiên nó không ăn nhập gì với những nước tự do, dân chủ, một người chủ tịch đảng, dù là đảng cầm quyền, cũng như những người chủ tịch đảng khác. Cộng thêm việc chế độ độc tài bị khinh bỉ, phỉ nhổ trên thế giới, nên Tổng Bí thư đảng Cộng sản gần như không đi viếng thăm những nước tự do, mà chỉ quanh quẩn thăm viếng những nước cộng sản còn lại. Như Nông Đức Mạnh, rồi Nguyễn Phú Trọng chỉ sang Tàu, rồi Cu ba, qua Bắc Hàn.
Để tiên đoán tương lai một chế độ độc tài thật khó khăn, vì là độc tài, nên tất cả những lực lượng đối lập bị trù dập, không hiện ra ánh sáng. Tuy nhiên những lực này, nếu có cơ hội thì sẽ bùng dậy, lật đổ độc tài. Vì vậy, những chế độ độc tài, bề ngoài thì có vẻ vững chắc, nhưng bị sụp đổ lúc nào không biết, như trường hợp độc tài Tunisie, Ai cập và Lybie gần đây.
Bề ngoài chế độ độc tài Lybie của Khadafi trông có vẻ vững chắc, Khadafi coi thường đối lập, chửi họ là hèn nhát như những con chuột cống. Thế rồi chính Khadafi bị lật đổ bởi những con chuột cống này, và bị chui vào ống cống để ẩn náu, nhưng sau cũng bị bắt, như chúng ta thấy trên truyền hình.
Trung Cộng và Việt Nam hiện nay, chế độ có vẻ “vững chắc”, nhưng chắc chắn trong tình trạng tức nước vỡ bờ, nâng thuyền là nước, lật thuyền cũng là nước, một buổi sớm nào đó, dân đồng loạt nổi dậy, chứ không lẻ tẻ như trước đây rồi bị dập tắt, cùng lật đổ chính quyền; hay quân đội có thể đảo chính; hoặc ngay chính một thành phần trong đảng cộng sản, thấy đảng đang đi ngược lại lòng dân, đi trái với chiều tiến bộ của nhân loại, đã can đảm cùng dân, cùng quân đội đứng lên lật đổ chính quyền.
Xin quay lại vấn đề Hoa Kỳ, để tiên đoán, như vừa tiên đoán Trung Cộng và Việt Nam:
Về Hoa Kỳ, nước này hiện nay là đệ nhất cường quốc trên thế giới sau khi Liên Xô sụp đổ. Vì là đệ nhất cường quốc nên có nhiều sách vở, báo chí, nghiên cứu và tài liệu; thêm vào đó, Hoa Kỳ còn là một nước dân chủ lớn. Dân chủ người ta có thể định nghĩa nhiều cách khác nhau, nhưng người ta cũng có thể định nghĩa một cách đơn giản là một thể chế chính trị tôn trọng sự trong sáng, không có sự dấu diếm, bưng bít, che đậy như ở những nước độc tài. Chính nhờ 2 yếu tố đó, nên tiên đoán về tương lai Hoa Kỳ không đến nỗi khó khăn lắm, và có nhiều bất ngờ, như tiên đoán về những chế độ độc tài.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra với chúng ta là Hoa Kỳ còn có thể giữ địa vị đệ nhất siêu cường đến bao giờ; và từ trước đến nay, Hoa Kỳ luôn dùng thủ thuật ngoại giao biến bạn thành thù, đổi thù thành bạn; vậy hiện nay ai là bạn, ai là thù của Hoa Kỳ.
Để tiên đoán tương lai dài hạn, cả trăm năm trở lên thì là một điều khó khăn; nhưng nếu nói trung hạn từ một trăm năm trở xuống, từ 20, 30 đến 50 năm, thì Hoa Kỳ trong trung hạn vẫn có thể duy trì địa vị đệ nhất cường quốc của mình, vì những lý do sau đây:
Hoa Kỳ là một chế độ dân chủ, mà người ta còn có thể định nghĩa khác, đó là một thể chế chính trị không hoàn hảo, nhưng lại là một thể chế tránh được những xấu xa nhiều nhất. Nguyên yếu tố tránh được những xấu xa đã là một trong những nguyên do chính giúp Hoa Kỳ tồn tại và kéo dài.
Nền kinh tế Hoa Kỳ có gặp những khó khăn, như nợ nhà nước lên tới 100% tổng sản lượng quốc gia, người dân cũng như chính quyền tiêu xài quá độ, tuy nhiên nền kinh tế này vẫn đứng hàng đầu và vẫn còn những nền tảng căn bản, như việc chương trình cải tổ kinh tế của Obama, một phần nào cũng đã chấn chỉnh kinh tế, thất nghiệp cũng đã giảm, trường hợp điển hình là hãng xe hơi Général Motor, đang bị trên đường phá sản, nay nhờ chương trình này, đã phục hồi, ngay cả vấn đề địa ốc.
Về văn hóa, giáo dục, theo bản nghiên cứu của tờ báo Wall Street, gần đây, thì trong 10 nước có nền văn hóa cao, với tỷ số dân có trình độ trên đại học, Hoa Kỳ vẫn còn đứng thứ 4, với dân số có trình độ đại học là 41%, chỉ sau Canada, với 50%, Do Thái với với 45% và Nhật cũng với 45%. Về giáo dục, mặc dầu trình độ trung học và nhất là tiểu học xuống cấp, nhưng Hoa Kỳ vẫn là nước dẫn đầu với nhiều đại học nổi tiếng nhất thế giới, Hoa Kỳ vẫn là nơi qui tụ nhiều giải thưởng Nobel, và nhân tài thế giới.
Về quân sự, quân đội Hoa Kỳ vẫn là quân đội mạnh nhất và được trang bị tối tân nhất hiện nay.(1)
Ai là bạn, ai là thù của Hoa Kỳ hiện nay?
Có người nói rằng kẻ thù của Hoa Kỳ hiện nay là Trung Cộng, còn những nước khác đều là bạn của Hoa Kỳ, viện dẫn lý do là trục kinh tế hiện nay chuyển mình về châu Á Thái Bình Dương, mà trong đó đường hàng hải giữ một vai trò quan trọng, trong khi đó Trung Cộng vẽ “Đường lưỡi bò”, đòi khống chế biển Thái Bình Dương, tất nhiên động chạm tới Hoa Kỳ. Thêm vào đó Trung Cộng đi theo một đường lối thương mại, ngoại giao “không có trách nhiệm của một cường quốc”, như chính lời của Obama tuyên bố trong một Hội nghị Thượng đỉnh châu Á gần đây.
Nhận xét trên có nhiều điểm đúng, nhưng không hoàn toàn.
Người khác thì cho rằng Hoa Kỳ có một mô hình tổ chức nhân xã dân chủ tốt đẹp, muốn quảng bá mô hình này ra toàn thế giới. Vì vậy bạn của Hoa Kỳ là những nước dân chủ, và kẻ thù của Hoa Kỳ là những nước độc tài.
Điều nhận xét này cũng không hoàn toàn sai, vì chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ từ trước đến nay rất là thực tế, thực tiễn. Nói theo kiểu ông Kissinger: “Hoa kỳ chỉ có đồng minh, chứ không có bạn và thù.” Đồng minh thì tùy lãnh vực và tùy hoàn cảnh, thời điểm.
Có thể nói về dân chủ, nhân quyền, thì Hoa kỳ coi Trung Cộng như “Thù”, một bằng cớ cụ thể là Hoa Kỳ vừa mới cho tá túc một người đấu tranh nhân quyền Trung Cộng, ông Trần Quang Thành, một luật sư mù, vẫn ngầm giúp đỡ những tổ chức nhân quyền; cũng như trong lãnh vực thương mại, Hoa Kỳ vẫn buôn bán với Trung Cộng và đồng thời vẫn tố cáo Trung Cộng thi hành một đường lối thương mại “bất chính”, như kìm giá đồng Nhân dân tệ rẻ so với đồng $, để xuất cảng.
Có người nghĩ rằng có thể có một cuộc chiến quân sự giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ.
Tôi không nghĩ như vậy, ít nhất là ngắn hạn và trung hạn; còn về dài hạn thì khó tiên đoán. Về ngắn hạn, tổng thống Obama còn bận về bầu cử, không dại gì gây ra một cuộc chiến. Hơn thế nữa, Hoa Kỳ có đủ những con bài tẩy để ép Trung Cộng ít hay nhiều theo ý của mình, không cần đến con bài quân sự. Về phía Trung Cộng, thì giới lãnh đạo cũng đủ sáng suốt để biết rằng gây chiến với Hoa Kỳ chỉ có hại chứ không có lợi, vì chưa đủ sức.
Tuy nhiên đó là về vấn đề ngoại giao, còn vấn đề nội bộ Trung Cộng thì rất khó tiên đoán: Một cuộc “Cách mạng Hồng vệ binh” có thể xảy ra, như nhóm của Bạc Hi Lai định dùng con bài này, trước đây, để gây thanh thế, hay một biến cố Thiên An môn có thể xảy ra, vì nội tình Trung Cộng vô cùng mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa dân với chính quyền, và mâu thuẫn ngay trong lòng chính quyền.
Trong trường hợp này, ngay cả chính quyền Trung Cộng cũng khó kiểm soát được tình hình. Lời tuyên bố của Thủ tướng Trung Cộng Ôn gia Bảo về hiểm họa một cách mạng hồng vệ binh tái diễn, không phải là không có lý. Khi chính chính quyền Trung Cộng không kiểm soát được tình hình, thì nói chi đến nước ngoài, dù là đại cường quốc như Hoa Kỳ.
Xét quá khứ, nhìn hiện tại, chúng ta thấy Việt Nam hiện nay vẫn chưa độc lập, mà còn lệ thuộc Tàu trầm trọng hơn, có người nói “Việt Nam hiện nay đang bị Tàu đô hộ lần thứ 5″, điều này không sai, hơn nữa Việt Nam vẫn không có tự do, dân chủ; vì vậy công cuộc đấu tranh cho độc lập, cho tự do, dân chủ, từ mỗi người dân Việt, ở trong cũng như ở ngoài nước, vẫn phải tiếp tục. Nhưng làm thế nào để không đi vào những vết xe đã đổ trước, hoặc cho rằng chỉ cần trông cậy vào mình người Việt Nam, không cần người ngoại quốc, trường hợp như người Hoa Kỳ, trước 1975, là đồng minh, sau trở thành thù; hoặc cho rằng hoàn toàn phải trông cậy vào ngoại quốc, hoàn toàn bán hồn cho ngoại bang.
Đây là hai thái cực mà chúng ta phải tránh.
Chúng ta phải tự lực cánh sinh, tự trông cậy vào mình trước; nhưng chúng ta cũng phải biết cập nhật hóa cuộc đấu tranh của chúng ta, để cho nó theo kịp đà tiến bộ của nhân loại, đồng thời vận động sự hỗ trợ của quốc tế, không nhất thiết một vài nước, mà càng nhiều càng tốt, không nhất thiết là chính quyền, có thể là những tổ chức nhân quyền, đấu tranh cho tự do, dân chủ quốc tế, không nhất thiết là những tổng thống, thủ tướng, ngoại trưởng, mà có thể là những nghị sĩ, thượng nghị sĩ, những viện nghiên cứu, đại học, không cần đi sao chép tư tưởng, ý thức hệ ngoại bang, như cộng sản đã làm, mà cần dựa trên căn bản tư tưởng cổ truyền, được cập nhật hóa.
Ngày hôm nay, về vấn đề ngoại giao, giữa 2 cường quốc có ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam, nhất là Hoa Kỳ và Trung Cộng, gần như chúng ta bắt buộc phải chọn Hoa Kỳ, mặc dầu vào năm 1975, nước này đã bỏ rơi chúng ta, như vào đầu thế kỷ 20, Nhật đã bỏ rơi cụ Phan Bội Châu. Chúng ta phải can đảm lấy quyết đó, vì nói theo kiểu một câu châm ngôn là phải chọn cái đỡ dở nhất trong những cái dở nhất, phải chọn bệnh ghẻ thay vì bệnh hủi, vì trên trường bang giao quốc tế không có lý tưởng tuyệt đối. Kẻ nào quá lý tưởng sẽ bị vỡ mộng. Thêm vào đó, chúng ta có quyền nghĩ đến quyền lợi của dân tộc ta, thì những người khác, Hoa Kỳ hay Nhật, họ cũng vậy. Bang giao quốc tế, nói như một nhà ngoại giao, là tùy hoàn cảnh, tùy thời, để đi đến chỗ lưỡng lợi, không có chuyện đặt tình cảm trong đó.
Cuộc đấu tranh cho độc lập quốc gia, cho tự do, dân chủ, nhân quyền còn có rất nhiều khó khăn, tuy nhiên, chắc chắn nó sẽ đi đến thành công, vì nó đi đúng chiều hướng tiến bộ của văn minh nhân loại, đi đúng lòng dân Việt và chiều hướng lịch sử Việt (1).
Xin xem thêm những bài về dân chủ và Hoa Kỳ, Trung Cộng, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/

Không có nhận xét nào: