Người Việt Thầm Lặng - ”Diễn biến hoà bình”, “Tự diễn biến…” là các cụm từ mơ hồ để nói về những điều có thật của sự cố xa rời lý tưởng, nhạt đảng, bỏ đảng và chống đảng đang nhan nhản đó đây nơi người này kẻ nọ trong nội tình cộng sản Việt nam. Chẳng thế đã có lần, tay đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng đã phải công khai và não nề than rằng “…quá nhiều đảng viên nhưng cộng sản được mấy người…” Quả thật, nhạt đảng, bỏ đảng luôn là gót chân Achilles, mãi mãi vẫn là tử huyệt không thể hoá giải và vô phương khắc phục của các đảng cộng sản còn sót lại trên thế giới.
Thật vậy, ngay đàn anh Trung quốc, sau năm 1949, khi cộng sản “giải phóng” Hoa lục chưa lâu, đã có không ít người âm thầm và công khai chán đảng, bỏ đảng. Để đối phó, Mao trạch đông đã phát động phong trào “Cách mạng văn hoá” với rất nhiều mỹ từ như “phê và tự phê bình” rồi “rèn cán chỉnh quân…” này nọ, nhưng thực chất chỉ nhằm thanh toán và loại trừ những kẻ đáng nghi, không cùng suy nghĩ lập trường. Kiểu “cách mạng” này đã giết hại vài chục triệu người, với đủ kiểu giết từ nhẹ nhàng kín đáo đến trắng trợn công khai.
Dù vậy, chán đảng, bỏ đảng đã là làn sóng không bao giờ chấm dứt, chỉ khác nhau ít nhiều tuỳ thời điểm mà thôi. Gần đây, vào đầu vào tháng 11 năm 2004, sau loạt bài xã luận trên tờ Đại Kỷ nguyên với 9 bài bình luận lột trần chân tướng cộng sản, quen gọi là Cửu bình, những người rời bỏ đảng cộng sản đã lên tới con số 138 triệu.
Con số ấy đang tăng lên từng ngày với phong trào “Thoái đảng” gồm ‘tam thoái bảo bình an”. Tam thoái: thoái đảng, thoái đoàn và thoái đội. Cụ thể, ngày 17/5/2013 vừa qua, trước toà nhà Liên Hiệp Quốc tại New York, hàng trăm người Hoa tay cầm biểu ngữ, rất ôn hoà, họ chỉ đứng yên lặng biểu tình nhằm ủng hộ 138 triệu người Hoa đã từ bỏ Đảng Cộng Sản Trung Quốc và các tổ chức liên đới của nó. Hình ảnh ấy đã gây được ấn tượng sâu sắc với cộng đồng thế giới.
Với những tội ác tràn đầy và thực trạng vô cùng tệ hại do đảng CSVN gây ra cho đất nước hiện nay, cộng sản đã mất hết tính chính danh, chắc chắn làn sóng bỏ đảng và chống đảng tại Việt Nam sẽ xảy ra tương tự như tại Trung Quốc.
Thật vậy, qua nhiều thiều thập niên, làn sóng đảng viên chống lại đảng, từ bỏ đảng ở Việt Nam ngày càng lan rộng. Làn sóng này khởi đầu với Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung và nhiều người khác trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1955), rồi lan dần đến Hoàng Minh Chính (1967), Trương Như Tảng (1978), Dương Quỳnh Hoa (1979), Hoàng Hữu Quýnh (1981), Huỳnh Nhật Hải (1988), Huỳnh Nhật Tấn (1988), Bùi Tín (1990), Nguyễn Hộ (1991), Trần Độ (1999), Phạm Quế Dương (1999), Phạm Đình Trọng (2009), Đỗ Xuân Thọ (2010), Nguyễn Chí Đức (2012), v.v. Đó là những đảng viên tương đối có tên tuổi đã công khai từ bỏ hoặc chống lại đảng.
Còn biết bao đảng viên khác đang thờ ơ với các sinh hoạt đảng, âm thầm từ bỏ hoặc chống lại đảng mà ít người biết đến.
- Không ít người đã bỏ đảng vì chán ghét đảng, căm hờn đảng đã lường gạt và lợi dụng lý tưởng của mình;
- Không ít người đã bỏ đảng vì thấy đảng đã tự lột mặt nạ và hiện nguyên hình là một đảng cướp, một kiểu cướp có bảo kê bằng luật của kẻ mạnh, luật của cường quyền.
- Đảng, chẳng phải chỉ là phản dân hại nước mà còn là buôn dân bán nước, hèn với giặc ác với dân.
- Nhiều đảng viên chưa thể dứt khoát từ bỏ đảng được vì họ sợ bị đảng trả thù, sợ bị “mất nồi cơm”, mất công việc “thơm” đang làm.
- Nhiều người chán đảng nhưng chỉ dám tỏ thái độ thờ ơ, ngừng sinh hoạt, và chờ ngày đảng sụp đổ để có thể công khai biểu lộ tư tưởng chán ghét đảng mà họ cứ phải dấu kín trong lòng biết bao năm.
Tóm lại, đảng cộng sản đã mất hết chính danh, khi danh không chính ngôn làm sao thuận?
Chưa có bộ phận nào nghiên cứu để biết chính xác số đảng viên bỏ đảng, chán đảng, thù đảng hay tỏ thái độ thờ ơ với các sinh hoạt đảng là bao nhiêu. Nhưng với tình hình hiện nay, người ta dự đoán con số ấy là không hề nhỏ.
Để ngăn chặn làn sóng bỏ đảng ngày càng mạnh, bộ chính trị đảng CSVN đã dùng chế độ lương hưu làm mồi nhử và vòng kim cô để ràng buộc những người muốn bỏ đảng (*).
Họ cũng trưng dẫn cách hành xử đầy căm thù của nhiều người Việt tại hải ngoại đối với những người bỏ đảng như Bùi Tín, Hoàng Minh Chính ra để răn đe, hù dọa. Trong chiều hướng đó, Bộ Chính Trị CSVN đang tận dụng mọi phương cách để làm sao, người Việt hải ngoại càng tỏ ra căm thù chế độ, càng tẩy chay và nghi ngờ những người đã từ bỏ đảng Cộng sản thì càng tốt, vì càng giúp đảng ngăn chặn làn sóng bỏ đảng và chuyển sang hàng ngũ đấu tranh dân chủ chống lại đảng.
Thái độ dị ứng, nghi ngờ và ác cảm của khá nhiều người Việt tại hải ngoại đối với những người bỏ đảng, hay xuất thân từ đảng cộng sản nhưng dám nói sự thật về chế độ cộng sản như Huy Đức với tác phẩm ‘Bên thắng cuộc’, khiến cho những người này bị “chênh vênh”, “kẹt cứng” và hụt hẫng vì lâm vào tình huống “đi cũng dở, ở không xong”. Họ quay về với đảng cộng sản thì không được, vì không phù hợp với lương tâm họ và chắc chắn sẽ bị đảng trả thù do đã nói nhiều điều bất lợi cho đảng, mà về với hàng ngũ quốc gia, với phe chống cộng thì bị phe này nghi ngờ, tẩy chay, chống đối [**]. Điều này khiến cho những người đang muốn từ bỏ đảng để về với hàng ngũ quốc gia phải nghi ngại, e dè, và cuối cùng không dám. Hoặc, rất muốn nhưng quá nản đành phải “kính nhi viễn chi”.
Như thế hóa ra những người chống cộng kiểu này lại làm đúng những điều mà chế độ cộng sản mong muốn. Gala Silberkweit Stern thật chí lý khi lấy tựa cho một tác phẩm của mình là: “Les deux extrêmes se rencontrent” (Hai thái cực gặp nhau) [***]; Józef Ignacy Kraszewsky còn xác định rõ hơn: “The evil is in the two extremes, or rather the two extremes meet and form one evil” (Sự ác nằm ở hai thái cực, hay nói đúng hơn, hai thái cực hợp lại cùng làm nên một điều ác) [****].
Những người chống cộng kiểu ấy đâu biết rằng những bài viết chống cộng của những người từng phục vụ trong chế độ cộng sản thường gây thiệt hại cho chế độ cộng sản nhiều hơn những bài viết tương tự của những người quốc gia. Thật vậy, kinh nghiệm đời thường cho thấy không mấy ai có thể làm thiệt hại ta bằng những người đã từng là bạn, mà nay lại quay lưng lại với ta. Trước đây họ càng thân với ta bao nhiêu thì khi họ chống lại ta, họ càng trở nên bất lợi cho ta bấy nhiêu. Đối với các đảng phái cũng vậy, đảng viên càng cao cấp bao nhiêu thì khi phản lại đảng, họ càng nguy hiểm cho đảng bấy nhiêu. Lời tố cáo của họ về những điều xấu xa của đảng được mọi người tin nhiều hơn những người ngoài đảng vì nó mang tính nhân chứng hay lời chứng.
Hiện nay, phe quốc gia chống cộng thiếu một bộ phận quan trọng là “Cục Tâm Lý Chiến” mà chế độ VNCH đặt rất nặng, vì cục này gây thiệt hại rất lớn cho cộng sản. Do đó, sau 1975, những ai đã từng phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến cũng như ngành Tình Báo thì bị cộng sản đặc biệt căm thù và phạt nặng hơn những người thuộc những ngành khác. Một sản phẩm quan trọng của “Cục Tâm Lý Chiến” là “Chính Sách Chiêu Hồi” đã làm cho bao cán binh cộng sản rời bỏ hàng ngũ của họ trở về với chính nghĩa quốc gia, đồng thời cung cấp cho chế độ VNCH nhiều tin tức quan trọng rất bất lợi cho cộng sản. Do vậy, sau 1975, họ bị cộng sản trả thù hết sức tàn bạo.
Nhiều người đã tôn vinh chế độ VNCH, một chế độ tuy dân chủ còn non trẻ nhưng vẫn hơn trăm ngàn lần những chế độ độc tài hiện nay, tại sao chúng ta không tiếp nối chính sách chiêu hồi của VNCH để kêu gọi những người theo chế độ cộng sản trở về với chúng ta? Tại sao chúng ta lại hành xử ngược với phương cách của chế độ VNCH mà chúng ta cho là chính nghĩa? Chúng ta chửi cộng sản, tố cáo tội ác cộng sản để những người cộng sản giác ngộ được bản chất của chế độ rồi từ bỏ cộng sản để trở về phía chúng ta, có phải vậy không? Tại sao khi họ có khuynh hướng phản đảng, từ bỏ đảng, chúng ta lại nỡ quay lưng với họ? Thử hỏi chúng ta có cần hay nên đón nhận họ, gần gũi với họ để cùng họ tranh đấu giải thể chế độ cộng sản không? Phải chăng số đảng viên cộng sản trở về với hàng ngũ đấu tranh của chúng ta càng đông thì sự sụp đổ của chế độ càng nhanh và càng có cơ may trở thành hiện thực?
Và như thế, quay lưng với những người nhạt đảng hoặc bỏ đảng, chính là ta tự chặt tay mình ?
Người Việt Thầm Lặng
[*] Đại tá Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng giảng về Biển Đông cho các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội, đã thuyết giảng: “Hiện nay các đồng chí đang công tác chưa có sổ hưu nhưng trong một tương lai gần hoặc một tương lai xa chúng ta cũng sẽ có sổ hưu và mong muốn mỗi người chúng ta sau này cũng sẽ được hưởng sổ hưu trọn vẹn. Và tôi đi giảng bài cho tất cả các đối tượng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đó có một nội dung rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây. Cho nên ta phải nói rõ luôn, hiện nay chúng ta phải làm mọi cách để bảo vệ bằng được Tổ quốc Việt Nam thời XHCN.”
(Trích http://phunucovang.com/2012/12/31/dai-ta-tran-dang-thanh, đoạn 7)
[**] Nhiều người trong hàng ngũ quốc gia tẩy chay và chống đối những người bỏ đảng cộng sản và tố cáo những sự thật xấu xa của chế độ là vì: những người này tuy nói bất lợi cho chế độ, nhưng lại không nói đúng như những người quốc gia thường nghĩ. Những người quốc gia kia đòi buộc những người này phải nói, phải viết đúng như những điều họ đang nghĩ về chế độ cộng sản thì họ mới chịu. Nhưng điều họ đòi buộc đó làm sao có thể xảy ra được khi những người kia từng bị cộng sản nhồi sọ từ hồi nhỏ, lại sống trong chế độ cộng sản suốt cuộc đời họ, bị chế độ ảnh hưởng đến tư tưởng, quan niệm, đến cả cách sử dụng từ, nhất là họ vẫn còn có thể bị chế độ bỏ tù? Những người đòi buộc như thế không hề tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ: nếu mình sống dưới chế độ cộng sản nhiều năm như họ, bị cộng sản nhồi sọ như họ, lại còn đang sống dưới ách tàn bạo của chế độ cộng sản như họ, liệu mình có can đảm nói sự thật về chế độ giữa lòng chế độ như họ không? Họ không hề tự hỏi rằng khi về Việt Nam, sống giữa lòng chế độ như họ, mình có dám nói dám viết những điều tương tự như họ đã nói đã viết không?
[***] Gala Stern, Gide Et Mauriac: Les Deux Extrêmes Se Rencontrent, Cornell University, June, 1956.
[****] Józef Ignacy Kraszewsky (Người Ba Lan), The Jew (bản dịch tiếng Anh của Linda Da Kowalewska), Dodd, Mead & Company, New York 1890 (trang 387).
Mời đọc thêm:
1) Một vài góp ý cho cuộc đấu tranh chống cộng sản hiện nay:
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/gopychocuocdautranh.html
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/gopychocuocdautranh.html
2) Đừng mắc bẫy cộng sản:
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/dungmacbaycongsan.html
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/dungmacbaycongsan.html
3) Nhận xét về hai phương cách đấu tranh chống cộng:
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/nhanxetve2phuongcachdautranh.html
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/nhanxetve2phuongcachdautranh.html
4) Đấu tranh – Lùi để Tiến
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/dautranh-luidetien.html
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/05/dautranh-luidetien.html
5) Đấu tranh để chiến thắng hay để lấy tiếng?
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/06/dautranhdechienthanghaydelaytieng.html
http://nguoivietthamlang2012.blogspot.com/2013/06/dautranhdechienthanghaydelaytieng.html
Tác giả gởi tới ban biên tập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét