Hàn Vĩnh Diệp
Sau khi báo Lao động online làm một việc ngớ ngẩn là đăng bài ca ngợi thác Đức Thiên của Trung Quốc kỳ thực là thác bản Giốc của Việt Nam, bị mạng BBC chỉ trích, câu chuyện thác Bản Giốc đã rộ lên với tinh thần phê phán gay gắt trên nhiều báo chí lề phải, và Ban Tuyên giáo Trung ương cũng vừa có công văn đề nghị cơ quan chủ quản báo Lao động “kiểm điểm, xử lý” người sai phạm khi cho đăng bài viết “Thác nước Detian – thiên đường chốn hạ giới”.
BVN không những có bài rất sớm về sự cố đáng tiếc này mà còn lưu ý đến một hiện tượng đáng quan ngại hơn rất nhiều: hiện tượng lãng quên thiên chức công dân – ý thức về lãnh thổ của Tổ quốc – của nhiều người Việt hiện nay, sau nhiều năm được rèn luyện trong nhà trường XHCN cũng như trong môi trường bị cấm ngặt không được thể hiện lòng yêu nước, không được mở miệng một câu nào về chủ quyền đất nước, ai nói thì bị tra vấn, bị bắt vào tù, trái lại được tự do tung hô “4 tốt” và “16 chữ vàng” mà ông Hồ Cẩm Đào từng nồng nhiệt tặng cho Đảng ta trong khi vẫn liên tục cho Hải quân Trung Quốc đánh giết ngư dân Việt Nam ngay trên vùng biển Việt Nam như cơm bữa. BVN còn thẳng thắn đề xuất kiến nghị: Nhà nước sớm công khai đường biên giới đã ký với Trung Quốc năm 1999 để an lòng dân.
Trên tinh thần đó, chúng tôi xin đăng lại bài viết công bố năm 2009 của ông Hàn Vĩnh Diệp, người đã bỏ nhiều công nghiên cứu từ lịch sử đến hiện trạng thác Bản Giốc trong những năm qua, đối thoại với ông Vũ Dũng về thực chất câu chuyện thác Bản Giốc mà ông Vũ Dũng từng khăng khăng trả lời báo chí vào năm 2007 rằng “không có chuyện Việt Nam mất thác Bản Giốc”.
Bauxite việt Nam
Trong bài trả lời phỏng vấn của các phóng viên báo Pháp luật TP HCM về khu vực thác Bản Giốc, ông Vũ Dũng – Thứ trưởng Bộ Ngoại giao – đặc trách vấn đề biên giới, đã nói: “Công ước Pháp – Thanh và Hiệp định 1999 qui định đường biên giới khu vực này chạy theo trung tuyến dòng chảy sông Quế Sơn, lên thác và tới mốc 53 phía trên. Do đó, phần thác cao rất đẹp của Bản Giốc hoàn toàn nằm bên phía Việt Nam, phần thác thấp nhưng là phần chính nằm ở sông Quế Sơn là thuộc Trung Quốc. Như vậy không có chuyện Việt Nam mất thác Bản Giốc. Tôi cho rằng có người thiếu thông tin nhưng cũng có người cố tình bôi nhọ chúng ta”.
Cũng trong bài trên, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc dân địa phương phản ánh đất đai của cha ông họ trước đây ở bên kia thác Bản Giốc, ông Vũ Dũng nói: “… Biên giới là một lịch sử dài nên qua lại xâm canh, xâm cư rất bình thường. Sau Hiệp định 1999 hai nước đang giải quyết vấn đề này. Chỗ nào thuộc về Trung Quốc thì trả về Trung Quốc, phần nào của Việt Nam thì trả về cho Việt Nam. Tuyệt nhiên không được hiểu là ta bị mất đất” [1].
Chúng tôi là một trong số nhiều người trước đây và cả hiện nay vẫn cho rằng: thác Bản Giốc (cả phần chính và phần phụ) là của Việt Nam đã bị Trung Quốc lấn chiếm. Tất nhiên là cả phần lãnh thổ về phía Bắc, từ cột mốc 53 theo trung tuyến sông Quây Sơn (ông Vũ Dũng nói nhầm là Quế Sơn). Không biết theo ông Vũ Dũng, chúng tôi thuộc loại người thiếu thông tin hay cố tình bôi nhọ! Thiếu thông tin, chắc chưa hẳn, bởi ngoài các tư liệu tham khảo chính thống mà có lần chúng tôi đã dẫn chứng, từ năm 1958 đến 2006, chúng tôi đã bảy lần đến thăm Bản Giốc, có lần ở lại một ngày đêm tại làng Thắc Then bên bờ Bắc sông Quây Sơn (nay thuộc về Trung Quốc). Vì vậy, xin được nói lại đôi điều để công luận xem xét.
1. Điều trước tiên chúng tôi cảm thấy là qua trả lời phỏng vấn trên, ông Vũ Dũng đã làm “xiếc” ngôn từ, nói theo cách dân gian là “lập lờ đánh lận con đen”. Ông gộp hai văn kiện: Công ước Pháp – Thanh năm 1887 – 1895 và Hiệp định về phân định biên giới Việt Nam – Trung Quốc 1999 làm một. Theo ông, Hiệp ước 1999 đã phản ánh đầy đủ nhất, trung thực nhất, chính xác nhất hai Công ước đó? Trong cuộc đàm phán về vấn đề Biên giới Việt-Trung năm 1975, phía Việt Nam đã đưa ra Bản dự thảo Hiệp định về đường biên giới quốc gia trên bộ giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa, trong đó, Điều I của Dự thảo Hiệp định ghi: “Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hòa Pháp và Chính phủ nhà Thanh, Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước CHXHCH Việt Nam và nước CHND Trung Hoa”. Nghĩa là nguyên trạng đường biên giới (theo đề xuất của ta) là đường được qui định theo Công ước Pháp-Thanh 1887-1895. Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị ấy và kiên quyết đòi lấy đường biên giới hiện trạng, nghĩa là đường biên giới mà họ đã lấn chiếm, sửa lại rất nhiều nơi từ hơn nửa thế kỷ nay. Như vậy, chính Trung Quốc đã phá bỏ Công ước Pháp-Thanh thì sao Hiệp ước 1999 lại “phản ánh đầy đủ nhất, trung thực nhất, chính xác nhất” hai Công ước đó? Hiệp ước 1999 dựa trên cơ sở đường biên giới hiện trạng theo ý đồ của Trung Quốc, có phải như vậy không?
2. Con sông Quây Sơn bắt nguồn từ Trung Quốc chảy vào nước ta ở cửa khẩu Pò Peo – xã Ngọc Khê rồi chảy dọc theo dãy núi đá biên giới giữa 2 nước, các cột mốc biên giới đều đặt trên các đỉnh của dãy núi, phần Bắc và Nam của dòng sông đều thuộc địa phận nước ta, đến làng Bản Giốc, dòng sông phân làm hai nhánh, giữa là một bãi cồn và hạ thấp khoảng 35m, tạo thành thác Bản Giốc ba tầng của dòng chính. Ngoài tên Bản Giốc, thác này còn có tên Đuây Bắc, Lầy Sản, Ngà Moong, Thoong Áng, … Dòng sông phụ tạo thành thác thẳng đứng, không có tên riêng mà vẫn mang tên chung của thác chính, mùa mưa có ba dòng chảy, mùa khô chủ yếu chỉ một dòng chảy, nước rất yếu, không gây ấn tượng gì. Cột mốc 53 (cột mốc cũ, nhưng đã di sang vị trí mới ) đứng trơ trọi bên dòng sông chính trên thác Bản Giốc. Người bình thường xem cột mốc 53 cũng thấy được rõ ràng, cột mốc ấy không đặt đúng địa điểm cũ của nó! Theo ký ức của các cụ già đã từng đi phu cho Tây thì vào thời Pháp, cột mốc biên giới nằm cạnh đồn Tây, tận trên đỉnh của ngọn núi phía Bắc thác Bản Giốc chứ không nằm trên bờ Bắc của dòng sông chính như hiện nay.
Hiện trạng địa hình khu vực này như sau: từ đường tỉnh lộ Cao Bằng – Trùng Khánh – Hạ Lang rẽ vào phía Bắc khoảng 100m, qua cầu xi măng bắt qua sông Quây Sơn, cạnh đấy là Trạm Kiểm soát của ta, đi vào hơn 500m đến cột mốc 53, ở đây có nhiều hàng quán bán đồ lưu niệm, thức ăn của người địa phương ta, vào sâu khoảng 100m đến Khu du lịch thác Đức Thiên (tức Bản Giốc) của Trung Quốc nằm trên bờ Bắc sông Quây Sơn. Khách du lịch của ta hoặc ngoại quốc đi từ phía ta sang đều lưu hành tự do, không kiểm soát giấy tờ gì cả. Trên sông dưới Thác Bản Giốc những nhà hàng nổi của họ đi lại tự do trên mặt sông, nhưng các mảng của khách du lịch bên ta thì chỉ được sang đến giữa sông.
Ảnh 1: Cột mốc 53 không đặt đúng địa điểm của nó
Như vậy tại sao toàn bộ phần thác Bản Giốc ba tầng lại thuộc Trung Quốc và dòng sông bên dưới thác ba tầng lại lấy trung tuyến làm biên giới? Từ lịch sử và hiện trạng của dòng Quây Sơn – thác Bản Giốc có thể đoán định: Theo Công ước Pháp – Thanh toàn bộ con sông Quây Sơn, cả bờ Bắc bờ Nam và thác Bản Giốc (ba tầng) là thuộc lãnh thổ nước ta. Cột mốc 53 (cũ) không đặt ở vị trí hiện nay. Hiệp ước 1999 đã xác lập vị trí hiện tại của cột mốc 53, toàn bộ thác Bản Giốc ba tầng và trung tuyến sông Quây Sơn từ dưới thác làm đường biên giới, điều dĩ nhiên là phần lãnh thổ phía Bắc sông từ cột mốc 53 về phía Đông là thuộc về Trung Quốc. Thực trạng đó có phải đúng như ông Vũ Dũng nói “Không thể nói Việt Nam mất đất!”?
3. Các tài liệu địa lý – du lịch trước đây của người Pháp, của nước ta và địa phương Cao Bằng đều cho rằng: thác Bản Giốc chính là thác ba tầng, (không có tài liệu nào đề cấp đến phần phụ ba dòng phía Nam), và đây mới là thác đẹp nhất nước ta và Đông Dương. Tài liệu của Trung Quốc gọi thác Đức Thiên 德天 (tức thác Bản Giốc) là thác đẹp nhất Trung Quốc và là một trong những thác đẹp nhất Châu Á. Không biết thẩm mĩ của ông Vũ Dũng thế nào mà ông lại nói ngược lại là “phần thác cao rất đẹp!” (Nói như thế có thể hiểu là phần thác chính ba tầng là bình thường). Ngay chuyện xác định độ cao-thấp như ông Vũ Dũng cũng không đúng, nếu không nói là nhập nhằng. Cả hai phần đều cùng một độ cao nhưng phần chính (hay nói chính xác là thác Bản Giốc) tạo thành ba tầng – nét đẹp độc đáo của nó một phần chính là ở điểm này. Phần thác phụ ba dòng, ta có thể tìm thấy hàng trăm cái như vậy ở nhiều miền núi nước ta. Không biết ông Vũ Dũng đã đến thác Bạc ở Sa Pa, thác Drap Sáp, thác Prenn, thác Đăm Bơ Ri v.v. chưa, liệu những thác nước ấy có đẹp bằng như thác phụ ba dòng “rất đẹp” của ông không?
Ảnh 2: Thác Bản Giốc. Bên trái là thác phụ (mà ông Vũ Dũng gọi là phần thác cao). Bên phải là thác chính (được ông Vũ Dũng gọi là phần thác thấp).
4. Khi đề cập đến phần lãnh thổ nước ta từ cột mốc chạy dọc theo bờ Bắc sông Quây Sơn về phía Đông (theo bà con ở địa phương có chiều sâu vào nội địa đến 2, 3 cây số), ông Vũ Dũng lại nói đến chuyện xâm canh xâm cư (!). Đất đai của ông bà tổ tiên ta bị mất hoàn toàn khác với chuyện xâm canh xâm cư ở biên giới. Trên biên giới nước ta với các nước láng giềng, trước đây, chuyện xâm canh xâm cư thường xảy ra. Nhưng, theo chúng tôi hiểu, đất xâm canh xâm cư là đất đai ở những khu vực biên giới đã xác định rõ ràng, người dân bên nước này sang nước kia khai thác hoặc mua để sản xuất, tạm cư và ngược lại. Bản thân những người dân này cũng thấy rõ họ đang canh tác sản xuất, cư trú trên lãnh thỗ nước láng giềng, khi nhà nước hai bên không cho phép, họ tự nguyện rút lui. Còn đất đai mà họ gọi là của “ông bà tổ tiên” là phần lãnh thổ quốc gia, họ được quyền sở hữu, có phải ông Vũ Dũng đã lầm lẫn giữa khái niệm lãnh thổ quốc gia với xâm canh xâm cư hay ông cố tình đánh tráo khái niệm?
5. Như kết luận của ông Vũ Dũng, không phải riêng chúng tôi mà cả các học giả, nhiếp ảnh gia, nhà địa lý, ký giả… Pháp, Việt Nam, Tỉnh ủy – UBND tỉnh Cao Bằng; Huyện ủy – UBND huyện Trùng Khánh (nơi có thác Bản Giốc), Sở Thương mại – Du lịch tỉnh Cao Bằng, bà con nhân dân xã Đàm Thủy – Bản Giốc… đều là những người thiếu thông tin hay cố tình bôi nhọ, khi họ khẳng định thác Bản Giốc (phần ba tầng và phần phụ) và phần lãnh thổ từ cột mốc 53 (bị di dời) bên bờ Bắc sông Quây Sơn về phía Đông đều thuộc Việt Nam và Việt Nam bị mất về tay Trung Quốc theo Hiệp định 1999 (?).
6. Để làm rõ trước công luận cả nước, chúng tôi xin đề nghị:
- Ông Vũ Dũng có thể cho biết: Trong Văn kiện “Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích, xâm lấn lãnh thỗ Việt Nam ở vùng biên giới” công bố ngày 15/03/1979 đã nhận định: “Đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chạy suốt trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ đã được hoạch định rõ ràng trong các Công ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh trong những năm 1887 – 1895 và đã được chính thức cắm mốc. Đó là một đường biên giới hoàn chỉnh cả trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ, có cơ sở lịch sử trong đời sống chính trị lâu đời của hai dân tộc, có giá trị pháp lý quốc tế vững chắc, có đầy đủ yếu tố thực tế để nhìn nhận tại thực địa” (Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội, 1979) , là đúng hay sai? Nếu đúng, sao ông lại nói: “Đường biên giới chúng ta chưa bao giờ được phân định rạch ròi như bây giờ” (Tất nhiên là phân định rạch ròi theo Hiệp định 1999)? Nếu nhận định trên là sai thì sai ở điểm nào?
- Các vùng lãnh thổ, vùng biển vịnh Bắc Bộ nước ta (được hoạch định theo Công ước Pháp-Thanh) bị Trung Quốc lấn chiếm từ thời Tưởng Giới Thạch đến chiến tranh biên giới phía Bắc (cụ thể như các vùng Trình Tường – Quảng Ninh; điểm nối ray đường sắt Việt-Trung, cửa khẩu Hữu Nghị quan; Thanh Lòa – Lạng Sơn, Khẳm Khau, Phia Can – Cao Bằng; Tả Lững, Làn Phù Phìn, Minh Tân – Hà Giang; Nặm Chay – Lào Cai v.v. và v.v.) như bản Bị vong lục trên và các tư liệu từ năm 1979 nêu ra đã được giải quyết như thế nào trong Hiệp định 1999 và việc cắm mốc mới vừa qua, nghĩa là Trung Quốc đã trả lại cho Việt Nam chưa hay lại giải quyết theo tinh thần hữu nghị “các chữ vàng” như Khu vực Bản Giốc?
- Ông Vũ Dũng với tư cách nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao – đặc trách vấn đề biên giới, hay người kế nhiệm ông hiện nay có thể đề nghị Chính phủ cho công bố (có “công chứng” để đảm bảo tính xác thực) các Bản đồ thực địa biên giới đất liền và vịnh Bắc Bộ theo Công ước Pháp – Thanh và Hiệp ước 1999.
Những điều trên đây không chỉ là ý kiến riêng của chúng tôi mà còn là của rất nhiều người có trách nhiệm trước một vấn đề đại sự của quốc gia, dân tộc và lịch sử. Chúng tôi nghĩ những vấn đề trên có lẽ không thể xem là bí mật quốc gia mà không cho dân biết – dân bàn – dân kiểm tra. Công bố rộng rãi các tư liệu có liên quan đến vấn đề bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ nước ta chính là thực hiện đúng đắn tinh thần “công khai – dân chủ – trung thực – dũng cảm, nhìn thẳng vào sự thật” của Đảng ”.
HVD
Phụ lục:
Sơ đồ khu vực Thác Bản Giốc
Minh họa và chú thích ảnh: CLB Phan Tây Hồ
[1] Bài phỏng vấn của ông Vũ Dũng đăng lại trong sách “Hoàng Sa- Trường Sa của Việt Nam – NXB trẻ. 6/2009”. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cắm mốc mới trên biên giới Việt-Trung, ông Vũ Dũng được điều chuyển làm Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét