Pages

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011

Cộng Sản Việt Nam âm mưu dâng tài nguyên quốc gia cho Trung Cộng

I. TỔNG QUÁT
Vì nhu cầu phát triển kinh tế để trở thành một cường quốc và cũng để nuôi 1.3 tỷ cái miệng ăn, Trung Cộng rất cần năng lượng, báo chí gọi là “khát dầu”.
Thời gian sau nầy, bùng lên việc tuyên bố chủ quyền trên vùng Đông Hải và Nam Hải, TC ngăn cấm việc đánh cá và thăm dò dầu khí của các nước trong vùng như Nhật Bản, Philippines, Việt Nam…Bằng những hành động côn đồ như cướp tài sản, bắt người phạt tiền, thậm chí ngay cả giết ngư dân, mà TC cho rằng đó là hành động chính đáng để bảo vệ chủ quyền trên biển của họ.

Song song với ý đồ chiếm tài nguyên biển, TC cũng có mục đích kiểm soát hai tuyến giao thông hàng hải, một ra biển Nhật Bản để vào Thái Bình Dương, và một ra Ấn Độ Dương qua tuyến giao thông rộn rịp hàng thứ hai thế giới, là eo biển Malacca nằm giữa Malaysia và Singapore, để xuất cảng và nhập cảng hàng hoá của họ.
Hai chiến lược Biển Xanh (Lam sắc quốc thổ chiến lược) và chiến lược Chuỗi Ngọc trai (Nhất xuyến trân châu. String of Pearls) đã bị các nước trong vùng phản đối mạnh mẽ, nhất là Hoa Kỳ.
Bị phản đối quyết liệt, TC bèn thay đổi thái độ, hoà hoãn với quốc tế, cho rằng “phát triển hoà bình” và không có ý đồ bá quyền.
Tuy nhiên, TC thay đổi chiến lược, quay sang đàn áp đàn em là Cộng Sản Việt Nam, buộc phải đàm phàn song phương, rồi từ đó, dùng công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng xác định chủ quyền của mình trên Biển Đông, biến vùng biển thuộc chủ quyền của VN trở thành vùng biển tranh chấp rồi nhảy vào khai thác tài nguyên thuộc vùng biển của VN.
Về phía VN, đảng CSVN có truyền thống làm tay sai TC và có “thành tích” bán nước từ Phạm Văn Đồng cho đến những Hiệp ước năm 1999 và năm 2000 đã cắt đất dâng biển cho quan thầy Trung Cộng.
Đảng CSVN đã bị TC khống chế, bị cấy bùa sinh tử, cho nên phải vâng lời đàm phán song phương, và một lần nữa sẽ bán nước cho bọn Tàu khựa.
Hiệp ước Phân định Vịnh Bắc Bộ ký ngày 25-12-2000 mà mãi đến năm 2004, VC mới công bố các toạ độ chính xác của các vị trí thoả thuận.
Hiệp ước Biên giới trên đất liền Việt Nam và Trung Quốc, được ký ngày 30-12-1999.
Qua hai hiệp ước, CSVN đã dâng Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và 789km2 trên đất liền và hàng ngàn Km2 trên biển.
Và hiện nay, cuộc đàm phán có tên là “Ủy Ban Chỉ Đạo hợp tác song phương” đang tiến hành để cho ra một Hiệp Ước Bán Nước nữa sắp tới đây.
Trên đây là vài nét tổng quát về nội dung của bài viết nầy, mà chi tiết được trình bày trong phần sau.
II. CHI TIẾT
1* Trung Cộng khẳng định chủ quyền không thể chối cãi trên Biển Đông
Trung Cộng luôn luôn khẳng định chủ quyền trên vùng biển hình Lưỡi bò, là sự thật không thể chối cãi được.
1.1. Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Cộng
Tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải
Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958
(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua) Quyết nghị
Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý.Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc (*)
Bốn: …”những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc”.
Đó là đường chữ U 9 đoạn hay vùng Lưỡi Bò đã chiếm 85% vùng Biển Đông của VN
1.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam tán thành nội dung bản tuyên bố
1.2. 1. Công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng
Công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.”(hết trích)
1.2.2. Đảng CSVN Công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng
1) Ung Văn Khiêm tuyên bố
“Thứ trưởng ngoại giao Ung văn Khiêm nói rằng “theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là một bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc”.
2) Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN:
… “xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống”
3) Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đã tuyên bố:
Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!
4) Năm 1960 và năm 1972 Hà Nội cho ấn hành hai cuốn Atlas.
Cuốn thứ nhất do Bộ Tổng Tham mưu Quân đội biên soạn.
Cuốn thứ hai do Phòng họa đồ của Phủ Thủ tướng biên soạn.
Trong cả hai cuốn này đều ghi Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung Quốc.
5) Báo Nhân Dân của Việt Nam số xuất bản ngày 16/9/1958
“Ngày 14/9 Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, trong bản công hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam “nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải“.
6) Sách Địa lý năm 1974
“Các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải Nam và Ðài Loan của Trung Quốc, hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa.”
7) Tháng 2 năm 1972, Cục Đo đạc và Bản đồ, trực thuộc Phủ Thủ tướng phát hành Tập Bản đồ Thế giới, trong đó, Hoàng Sa và Trường Sa bị đổi tên là Tây Sa và Nam Sa.
8) Tháng 5 năm 1976, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan tin “Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay thuộc về TQ thì cũng vậy thôi!”. (Hết trích)
Như trên cho thấy, không phải chỉ một Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của Trung Cộng, mà cả đảng và Nhà nước CSVN đã có cùng một chủ trương bán nước cho Tàu Cộng.
Sự thật rành rành không thể chối cãi được.
3* Trung Cộng chửi Cộng Sản Việt Nam
Trong khi Hồ Xuân Sơn “đồng thuận” với TC là thi hành “định hướng dư luận”, thì báo chí TC chửi đảng CSVN tàu xà lúp chở không hết, không còn lời lẻ nào nặng hơn trong ngôn ngữ chửi cả bình dân lẫn có văn hoá. CSVN bị chửi te tua hơn cái mền rách nữa.
Trúc Giang xin trích đoạn do Giáo sư Vũ Cao Đàm dịch từ tài liệu của Trung Cộng, như sau:
“Nói về Nam Sa, quần đảo mà VN đang chiếm 29 đảo. VN là nước láng giềng nhưng không muốn cùng Trung Quốc phát triển phồn thịnh. Quan hệ giữa VN-TQ là quan hệ giữa người nông dân với con rắn độc. VN luôn luôn đóng vai thất tín, bội nghĩa. Trong tình hình hiện nay, VN đã chống lại sự khoan dung và lương thiện của TQ.
Việc d ùng vũ lực đánh VN không thể chậm trễ hơn nữa.
Vì sao phải đánh CSVN bằng vũ lực?
Có hai khía cạnh sau đây:
3.1. CSVN là một quốc gia lòng lang dạ sói
Từ những năm 1960, TQ đã ủng hộ VN về quân sự, kỹ thuật, kinh tế với quy mô lớn, trong thời gian đó, bản thân TQ cũng khó khăn.
Với sự ủng hộ của TQ, VN đã đánh bại 560 nghìn quân Mỹ ở VN. TQ vô tư ủng hộ về nguồn lực và nhân lực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặt nền móng vững chắc cho việc phục hồi kinh tế cho VN.
Sự vô ơn của VN biểu hiện, một tay nhận viện trợ vô tư của TQ, một tay ngấm ngầm chìa ra cho Liên Xô. Dưới sự thao túng của Liên Xô, VN làm đủ trò quấy nhiễu biên giới Trung-Việt đến đổ máu người TQ.
Tại VN, VN sát hại và trục xuất Hoa kiều. VN đem quân sang chiếm Campuchia. Không thể nhẫn nại được nữa, tháng 2 năm 1979, TQ phát động chiến tranh phản kích tự vệ. VN bắt tay với Liên Xô, một đối thủ của TQ, cầm súng bắn lại ân nhân của mình.
Chúng ta hãy xem, bọn CSVN lòng lang dạ sói đến mức độ nào?
3.2. Cộng Sản Việt Nam là bọn tiểu nhân bỉ ổi không biết xấu hổ.
VN và TQ là hai nước láng giềng, uống chung một nguồn nước, nhiều chính trị gia đã đến học tập tại TQ, ngay cả đương kim thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng từng được huấn luyện, giáo dục ở TQ.
Trước đây, ngày 30-5-2008, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đột nhiên đến thăm nước ta, nói ra những điều cảm động lòng người, mồm bô bô “láng giềng tốt, bạn bè tốt, chiến hữu tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, tỏ ra rất thân thiết…sau nầy mới biết, vì lạm phát tăng cao, kinh tế nguy cơ bị khủng hoảng, nên mới chạy qua xin xỏ, cầu viện TQ. Đến khi vừa về tới nước thì tên Mạnh nầy liền trở mặt, liên kết với đối thủ cạnh tranh của TQ là công ty Mobil, để khai thác dầu khí ở Nam Sa (Trường Sa) mà VN cướp đoạt của TQ. Rõ là quân phản bội. CSVN thật là vô liêm sĩ, không biết hổ thẹn là gì.
Trong quá trình tranh chấp, VN âm mưu quốc tế hoá các đảo đã chiếm của TQ, với tâm địa độc ác, không biết xấu hổ. Đây là điển hình của hành vi “cường đạo biến thành quân tử”, thật là vô liêm sĩ.
Chính sách của VN đối với TQ thật là vô cùng nham hiểm, đó là toa rập với Hoa Kỳ ngăn chặn sự phát triển của TQ.
Xem ra, VN muốn đi theo vết xe cũ của năm 1979, vẫn còn muốn diễn vai bán đứng ân nhân đã từng giúp đở họ, để trở thành một kẻ tiểu nhân vô liêm sĩ thật thụ.
Năm 1979 chưa đủ dạy cho CSVN một bài học tơi bời, thì sắp tới đây, chúng ta cần phải làm triệt để, để VN có một bài học nhớ đời và cũng là lợi ích lâu dài của TQ.
TQ hiện nay đang theo chính sách “ẩn dấu tài năng”, “lâu dài mai phục” khiến cho bọn oắt tì VN xâm chiếm lãnh hải TQ và cứ nhâng nhâng thăm dò khai thác tài nguyên.
Đã đến lúc chúngg ta cần phải dẹp bỏ thái độ khoan dung nhân nhượng, mà phải dung vũ lực, chứng minh TQ là một đất nước anh hùng.
Để cho một nước lỏi con như VN xâm phạm lãnh thổ của mình, sự khoan dung thái quá là tự hủy diệt mình, cho nên phải dùng vũ lực tấn công VN một cách tàn nhẫn. Cần phải phá hủy triệt để các cơ sở quân sự, tất nhiên bao gồm tất cả hạ tầng dân sự của VN. Đối với một nước vô liêm sĩ như vậy, chúng ta không cần phải quan tâm đến vấn đề đạo đức, nhân đạo làm gì. Chỉ cần phù hợp với lợi ích quốc gia thì đó là chiến tranh chính nghĩa.” (Hết trích)
(Giáo sư Vũ Cao Đàm dịch từ tài liệu Trung Quốc).
Ngày 25-6-2011, Thiếu tướng Bành Quang Khiêm, Phó Tổng Thư Ký Ủy Ban Chính sách Quốc gia TC tuyên bố: “Trung Quốc đã từng dạy VN một bài học và có thể cho VN một bài học lớn hơn, nếu VN tiếp tục diễu võ dương oai, múa trên lưỡi đao, sớm muộn gì có ngày VN sẽ ngã trên lưỡi đao đó”.
4* Làm thế nào để hiểu nghĩa của từ ngữ của Trung Cộng?
Chúng ta không thể hiểu được quan điểm của TC qua những từ ngữ với cái nghĩa thông thường mà phát ngôn viên của hai bên đấu võ mồm với nhau, mà phải đọc qua những lời chửi bới thậm tệ nêu trên, từ đó mới hiểu rõ những “cụm từ” như sau:
- “Trung quốc không chiếm biển của VN” phải hiểu là, 2 quần đảo HS/TS và vùng Lưỡi bò là thuộc về của Trung Cộng rồi. TC không chiếm thêm nữa.
- “Không gây căng thẳng, gia tăng bất ổn” phải hiểu là VN phải ngừng thăm dò dầu khí, không đánh cá trong vùng biển của TC, cụ thể là tàu Bình Minh và Viking đã ngừng dò tìm mỏ dầu.
- “Định hướng dư luận” phải hiểu là VN phải cấm biểu tình, cấm chỉ trích TC, ví dụ như bắt giam nhà báo tự do Tạ Phong Tần và các nhà dân chủ, yêu nước khác.
Những chỉ thị trên đã được CSVN cung cung kính kính vâng lời tuyệt đối.
5* Hoa Kỳ và các quốc gia trong vùng phản đối quyết liệt
5.1. Hoa Kỳ phản đối
Ngoại trưởng Clinton tuyên bố, Hoa kỳ có quyền lợi quốc gia ở Biển Đông. Thứ trưởng Ngoại giao HK cho biết, Hoa Kỳ không tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông mà cũng không chấp nhận bất cứ một chủ quyền nào của ai tại đó cả.
Không phải nói suông, ngay sau đó, HK đưa Hàng Không Mẫu Hạm và tàu chiến hiện đại vào Biển Đông để bảo vệ quyền lợi quốc gia của HK. Các nước trong vùng hoan nghênh HK, cho rằng sự hiện diện lực lượng hùng mạnh của HK sẽ làm cho TC không dám dùng quân sự để gải quyết các tranh chấp với các nước nhỏ, yếu trong khu vực..
5.2. Các quốc gia trong vùng phản đối
Nhật, Úc, Philippines, Singapore, Malaysia và Ấn Độ đã rộn rịp ngoại giao để liên minh, liên kết chống lại bá quyền Trung Cộng.
6* Khúc xương khó nuốc
6.1. Gác bỏ chủ quyền qua một bên
GS Tô Hào, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu QT của Bộ Ngoại Giao TC cho biết, đến lúc phải “dẹp vấn đề chủ quyền qua một bên, tạo ra vùng biển hợp tác chung”.
Mới đây, hôm thứ năm 29-9-2011, ông Huang Jing, GS Đại học Singapore trả lời phỏng vấn của ký giả tờ Bloomberg, cho rằng Bắc Kinh muốn thoả hiệp với khối ASEAN về Biển Đông để ngăn cản sự can dự của Hoa Kỳ. Đặc biệt, ông Huang Jing nêu giả thuyết là Trung Cộng có thể từ bỏ “Đường Lưỡi bò 9 đoạn” trên bản đồ.
6.2.* Trung Cộng quay sang đàn áp CSVN
Việt Cộng đã cung cung cẩn cẩn vâng lệnh quan thầy, ngồi xuống giải quyết song phương, định hướng dư luận, thề không đa phương hoá, không quốc tế hoá vấn đề Biển Đông.
Trung Cộng đạt được mục đích là biến vùng biển thuộc chủ quyền của VN trở thành vùng biển tranh chấp bằng công hàm bán nước Phạm Văn Đồng, rồi nhảy vào khai thác tài nguyên thuộc về quốc gia VN.
7* Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp tác song phương là gì?
Nói đến “Hợp tác song phương” có nghĩa là không còn tranh chấp về chủ quyền nữa, mà là bàn về việc hợp tác chung của 2 bên, không ngoài hợp tác khai thác tài nguyên.
Ngày 7-9-2011, Tân Hoa Xã đưa tin, Ủy viên Quốc Vụ Viện Đới Bỉnh Quốc và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đồng chủ trì phiên họp Ủy Ban Chỉ đạo Hợp tác song phương. Báo chí VN loan tin, Nguyễn Tấn Dũng nói rằng “Việt Nam luôn luôn ghi nhớ sự giúp đở to lớn của Đảng, nhà nước và nhân dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong việc xây dựng phát triển kinh tế ngày nay. Khẳng định, chính sách trước sau như một của VN là tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt”.
Vì bị chửi là “hèn hạ vô liêm sĩ, vong ân bội nghĩa”, nên Nguyễn Tấn Dũng cam kết là nhớ ơn, cũng có nghĩa là sẽ trả ơn, làm đẹp tình hữu nghị không gì bằng tôn trọng chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải mà Chu Ân Lai đã công bố. Lại một lần nữa, Nguyễn Tấn Dũng theo bước Phạm Văn Đồng đối với TC.
8* Ơn nghĩa trời biển của Trung Cộng
Chỉ riêng về vũ khí, tính bằng số lượng, cho giai đoạn 1973-1975
1. Súng bộ binh (Tính bằng khẩu): 2,227,677 khẩu (2 tỷ)
2. Súng chống xe tăng: 43,584 khẩu
3. Súng cối đủ loại: 24,134
4. Pháo hỏa tiễn: 290 khẩu
5. Pháo mặt đất: 1,376
6. Pháo cao xạ: 3,229 khẩu
7. Hoả tiễn Hồng Kỳ: 1 trung đoàn
8. Đạn hoả tiễn K 681: 480 quả
9. Phi cơ chiến đấu: 142 chiếc
10. Tàu chiến: 30 chiếc
11. Tàu vận tải quân sự: 127 chiếc
12. Xe tăng các loại: 552 chiếc
13. Xe vỏ biọc thép: 360 chiếc
14. Xe xích kéo pháo: 322 chiếc
15. Xe chở quân: 6,524 chiếc
16. Phao cầu: 15 bộ
17. Xe cơ giới: 3,430 chiếc
18. Ống dẫn dầu: 11 bộ
19. Thiết bị toàn bộ: 36 bộ
Đây là viện trợ vũ khí trong giai đoạn 1973-1975. Trước đó không kể. Không kể các chi viện kinh tế, cố vấn…
III. KẾT LUẬN
Hội đàm hợp tác còn đang tiến hành, có lẻ đang tranh cãi về hình thức hợp tác khai thác như thế nào? Lợi nhuận sẽ chia chác ra sao?
Phó chủ tịch Tập Cận Bình khuyên đảng CSVN nên “3 kiên trì”. Đó là lời khuyên của người bề trên như ông chủ khuyên bảo tôi tớ vậy. Thử hỏi CSVN có ai dám khuyên lãnh đạo TC như thế không? Khuyến khích, động viên, an ủi, vỗ về…
· Kiên trì hiệp thương hữu nghị
Về lời khuyên nầy thì CSVN đã nhanh chóng và đồng loạt thể hiện tấm lòng thành, nhất trí xử sự mọi việc trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt.
(Láng giềng hữu nghị. Hợp tác toàn diện. Ổn định lâu dài. Hướng tới tương lai* Láng giềng tốt. Bạn bè tốt. Đồng chí tốt. Đối tác tốt)
· Kiên trì nhìn đại cuộc
Là kiên gan, bền chí, nhẫn nại, nhẫn nhục để bảo vệ đại cuộc có liên quan đến sự sống còn của lãnh đạo VN, đó là bảo vệ đảng. Đảng còn thì người còn. Người còn thì tài sản còn. Tài sản cán bộ còn thì nhân dân trắng tay.
· Kiên trì hợp tác cùng có lợi
Hợp tác thì có lợi. Bất hợp tác thì mất tất cả, bởi vì đã bị bùa sinh tử, đầu đội chiếc vòng kim cô…
Cộng Sản VN có lẻ khoái cái giải pháp nầy nhất. Bởi vì, vấn đề chủ quyền đã được gác qua một bên, cho nên, CSVN có thể mạnh dạn tuyên bố với nhân dân VN rằng, HS/TS vẫn còn là của VN, sự thật không chối cãi được.
Còn việc chia chác lợi nhuận thì các khoản thu nhập về khai thác tài nguyên biển sẽ được đưa vào ngân khoản quốc phòng, một chương mục thuộc bí mật quốc gia, cấm mọi người nhắc tới hoặc công bố.
Tóm lại, một hiệp ước sẽ ra đời. Hai bên đều tuyên bố thắng lợi trong việc hợp tác khai thác tài nguyên quốc gia của VN. Và một lần nữa, VC dâng tài nguyên quốc gia cho Trung Cộng.
Trúc Giang
Ngày 3-10-2011
Ghi chú:
(*) Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải

Không có nhận xét nào: