Pages

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Trung Quốc, Việt Nam bập bềnh trên Biển Đông

David Brown/Asia Times

Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ

Trong sự trỗi dậy của một cuộc tranh cãi lớn về hàng hải vào mùa xuân năm ngoái, những hy vọng về một thỏa thuận giữa Trung Quốc và Việt Nam đang tăng lên ở Biển Đông.
Các tàu tuần tra Trung Quốc từng gây ra sự cố vào tháng Năm và tháng Sáu năm ngoái khiến làm rung chuyển các ban bộ ngoại giao trên khắp khu vực Đông Nam Á đến tận những nơi xa xôi như New Delhi, Canberra, Tokyo và Washington. Hành động khiêu khích chỉ ra một số các yếu tố ngoại vi cứng rắn vốn được nhận lệnh từ chính sách của Bắc Kinh về các vùng biển tranh chấp.
Bị thúc giục bởi các giải thích quá thiên kiến về sự xâm phạm của Philippines và Việt Nam vào các vùng lãnh thổ lẽ ra là không thể chối cãi của Bắc Kinh trên Biển Đông, dư luận Trung Quốc dường như muốn “dạy một bài học” cho cả hai nước vốn được xem là những người láng giềng bất tuân.

Trong mùa hè, một loạt các hoạt động ngoại giao của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã thu hút những hứa hẹn mới của Trung Quốc rằng họ sẽ tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho các tuyên bố chủ quyền hàng hải chồng chéo này.
Một tiếng thở phào chung nhẹ nhõm chào mừng “Hướng dẫn Việc thực hiện Tuyên bố về ứng xử”, thỏa thuận mới của Bắc Kinh trong vùng Biển Đông. Hầu hết các nước trong khu vực rõ ràng nhìn thấy có rất ít tiềm năng trong việc thực sự muốn giải quyết cuộc tranh chấp kéo dài âm ỉ, họ chỉ hy vọng để tránh được một cuộc xung đột vũ trang.
Những người hoài nghi đã suy đoán rằng sau khi thể hiện sự sẵn sàng ngăn cản các hoạt động thăm dò dầu khí ngoài khơi bờ biển Việt Nam và Philippines, Trung Quốc đã quay trở lại giai đoạn lành tính của loại chiến lược “miệng nói tay làm” chỉ trong thời gian mùa bão của vùng Biển Đông.
Những cuộc tranh chấp lãnh thổ này không chỉ là một cuộc tranh cãi về các rạn san hô và đảo nhỏ từ xa và không đáng kể : Các điểm gây tranh cãi nằm ngang những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới, một vùng ngư nghiệp quan trọng và, được nhiều người tin là những hồ lớn dầu và khí đốt chưa từng được khai thác.
Nếu không được kiểm soát, cuộc vận động dai dẳng về “chủ quyền bất di bất dịch”, một khẳng định có tính lịch sử mỏng manh của Trung Quốc trên vùng biển kéo dài đến tận phía nam Singapore đã từng có thể có khả năng dẫn đến những cuộc đụng độ chết người – không chỉ với các nước đối thủ có khẳng định chủ quyền tương tự như Philippine, Brunei, Malaysia hay Việt Nam mà còn cả với các lực lượng hải quân Mỹ.
Tại một hội nghị gần đây ở Hà Nội, nhà chuyên gia Mỹ được mời đến đã vạch ra sự gia tăng chú ý mạnh mẽ của Washington đến những diễn biến trong vùng Biển Đông. Trung Quốc đã vênh vang tự mãn, ông nói, và Hoa Kỳ “chỉ có thể hưởng lợi từ việc phát huy các nguyên tắc về tự do hàng hải và giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình … cung cấp cho các nước Đông Nam Á nhiều lý do để cải thiện quan hệ song phương với Mỹ”.
Nếu ngoại giao của ASEAN là yếu ớt và Mỹ cùng các đồng minh khu vực đang bị lôi kéo vào cuộc tranh cãi trong khu vực, thì đâu sẽ là tia hy vọng? Niềm hy vọng ấy chỉ mới xuất phát gần đây từ những chỉ dấu cho thấy rằng Việt Nam và Trung Quốc có thể tìm ra được một thỏa thuận song phương, hoặc ít nhất là hướng tới được một Tạm ước (Vivendi modus).
Tám tháng sau các mối đe dọa về kinh doanh, Trung Quốc và Việt Nam đang nháo nhào trong các cuộc đàm phán về phần phía bắc của vùng Biển Đông, phần mở rộng mà không quốc gia nào tranh chấp. Đó là một trò chơi nguy hiểm nhiều cho các nhà lãnh đạo Cộng sản hai nước.
Vấn đề đặt ra là chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và các vùng biển lân cận. Các quần đảo Hoàng Sa bao gồm các đảo, bãi cát và rạn san hô ở phía nam đảo Hải Nam của Trung Quốc và phía đông bờ biển phía nam miền trung Việt Nam. Ngư dân từ các quốc gia duyên hải thường xuyên lui tới các quần đảo trong nhiều thế kỷ, hành động này đã hình thành căn bản cho các khẳng định chủ quyền có tính lịch sử bởi cả Việt Nam và Trung Quốc.
Theo luật pháp quốc tế, khẳng định lịch sử của Việt Nam mạnh mẽ hơn bởi vì từ thời quân chủ của Việt Nam, rồi đến Pháp (thuộc địa hóa Việt Nam trong những năm 1800) và sau đó là Viêt Nam Cộng hòa (“miền Nam Việt Nam”) thực hiện chủ quyền không có gián đoạn từ thế kỷ 16 cho tới năm 1974, khi một đơn vị đồn trú của miền Nam Việt Nam bị dày xéo bởi các lực lượng Trung Quốc.
Kể từ đó, mặc dù Hà Nội vẫn bám vào các đòi hỏi của mình, Trung Quốc đã mở rộng các công sự trên những đảo nhỏ và xây dựng các cơ sở cảng và bãi đáp máy bay. Tàu thuyền Việt Nam đã bị sách nhiễu, đôi khi bị bắt giữ để đòi tiền chuộc khi họ cố gắng đánh cá trong vùng biển gần đó.
Vì thế, thật là ngạc nhiên khi Bắc Kinh, dù an toàn trong sở hữu thực tế quần đảo Hoàng Sa và dù với lực lượng hải không mạnh hơn nhiều, đã phải đồng ý “để tăng tốc sự phân định vùng biển ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ và … tích cực thảo luận hợp tác vì sự phát triển chung của vùng biển này” vào giữa tháng Mười.
Thậm chí còn ngạc nhiên hơn là (trong khi bằng chứng lịch sử sẽ được xem xét), “căn cứ trên một chế độ hợp pháp và các nguyên tắc quy định của pháp luật quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam và Trung Quốc sẽ “nỗ lực để tìm kiếm các giải pháp có thể chấp nhận được về cơ bản và dài hạn cho cả hai bên trong các vấn đề tranh chấp có liên quan đến biển”.
Trong thời gian chờ đợi một thỏa thuận dứt khoát nhằm giải quyết vấn đề lãnh thổ, hai bên sẽ tích cực thảo luận về hợp tác cùng phát triển”. Căn cứ vào giá trị mặt nổi, điều này dường như đã cho thấy rằng Trung Quốc rút lui khỏi tuyên bố về một “thẩm quyền bất di bất dịch” của mình trên toàn bộ khu vực trong đường cong nổi tiếng hình chữ U chín gạch, một khẳng định từng bao gồm hơn 80% Biển Đông.
Các chuyên gia pháp lý nói rằng, bất kể là bên nào kiểm soát, quần đảo Hoàng Sa là không đủ đáng kể để tạo nên một “vùng đặc quyền kinh tế”. Vì vậy, theo các nguyên tắc của UNCLOS, một phần chia của các khu vực tranh chấp song phương sẽ ở vào khoảng dọc theo đường chia giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và ven biển miền Trung của Việt Nam. Điều này sẽ phân chia các vùng biển thành các khu vực gần tương đương bằng nhau.
Nếu Trung Quốc quan tâm nghiêm chỉnh đến việc dàn xếp một thỏa thuận song phương, họ cũng có thể phải thừa nhận sự kiểm soát các rạn san hô và đảo nhỏ của Việt Nam ở phần cuối phía tây của quần đảo Hoàng Sa, khu vực phía tây của đường chia giữa.
Ưa thích một giải pháp song phương
Trung Quốc có thực sự đồng ý với sự phân giới cắm mốc như vậy? Tối thiểu có bốn lý do chính đáng tại sao họ có thể đồng ý.
Trước tiên, là vì có một tiền lệ. Năm 2000, sau bảy năm tranh cãi, Trung Quốc và Việt Nam đã xoay sở để thỏa thuận về phân định biên giới biển của họ trong Vịnh Bắc Bộ – khu vực có hình ngón tay của Biển Đông nằm giữa các tỉnh miền Bắc Việt Nam và bờ biển phía tây đảo Hải Nam. Ngoài ra, hai nước đã thiết lập tuần tra quản lý các nguồn lực (thủy sản) chung. Kết quả là, một lằn gạch thứ mười đã được xoá hoàn toàn từ “bản đồ đường chữ U” mà Trung Quốc sử dụng để minh họa cho yêu cầu bồi thường của mình đến vùng biển phía Nam.
Thứ hai, Trung Quốc đã từng nhấn mạnh rằng vấn đề chủ quyền lãnh thổ phải được giải quyết song phương. Nói một cách khác, là họ sẽ không đàm phán về các tuyên bố chồng chéo ở phần phía nam của Biển Đông với tất cả hoặc một tập hợp con của các nước ASEAN. Nếu việc thu xếp một thỏa thuận công bằng song phương với Việt Nam trong một phần của khu vực biển, nơi chỉ có tranh chấp của hai nước bị đe dọa sẽ chỉ tăng cường đáng kể sự tín nhiệm của Bắc Kinh.
Thứ ba, việc duy trì một mối quan hệ dân sự với các nhà lãnh đạo Việt Nam là hệ trọng đối với Trung Quốc. Chế độ Hà Nội là một loại chế độ duy nhất khác của cả thế giới, một quyết tâm xây dựng “chủ nghĩa xã hội thị trường” dưới sự lãnh đạo độc quyền của một đảng cộng sản. Dưới sự bảo trợ của một Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, có một lưu lượng truy cập hai chiều cực lớn của các chuyến thăm nhằm xây dựng các liên kết hữu nghị giữa các Bộ, các tỉnh lân cận, các tổ chức chức năng, lực lượng vũ trang và, tất nhiên: các tổ chức đảng.
Thứ tư, sự đồng ý ấy sẽ hỗ trợ lý thuyết cho rằng các hành động khiêu khích vào mùa xuân năm ngoái chỉ là công việc của các diễn viên cấp thấp hơn, ví dụ như của các đơn vị bảo vệ bờ biển Trung Quốc và các công ty dầu mỏ, những thành phần có kém hiểu biết về mục tiêu rộng lớn hơn của Trung Quốc trong khu vực. Đến giới hạn mà các thành viên ASEAN tin rằng đó chính là sự thật, họ sẽ quay trở lại để cũng tin tưởng vào kịch bản “tăng trưởng trong hòa bình” của Bắc Kinh và bỏ mất sự quan tâm đến phần vai của Mỹ, Nhật Bản và Úc như các diễn viên trong vở kịch Biển Đông đang diễn ra.
Phần nguy hiểm là rất cao đối với Bộ Chính Trị tại Hà Nội. Kể từ xa xưa, quản lý một mối quan hệ bất bình đẳng với người hàng xóm khổng lồ ở phía bắc từng là mối quan tâm cốt lõi của các nhà cầm quyền Việt Nam. Điều đó có nghĩa thuyết phục Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ chiến đấu nếu sự toàn vẹn lãnh thổ của mình bị đe dọa, trong khi cũng biết khi nào cần hiển thị sự tôn kính và thương lượng.
Có nhiều thành phần ở Việt Nam, bao gồm “những nhà phóng khóang” trong nội bộ đảng cầm quyền, những người sẵn sàng tấn công các nhà lãnh đạo hiện nay nếu họ có vẻ mềm mỏng đối mặt với Trung Quốc. Và, bộ chính trị chắc chắn phải lo lắng rằng những người Trung Quốc cực kỳ yêu nước, đặc biệt là thành phần hiếu chiến trong lực lượng hải quân của Trung Quốc, đang hăm hở muốn chiến tranh.
Từ đó, chiến lược của Việt Nam đã không hề nhường nhịn gì cho đến khi Bắc Kinh đặt lên bàn nghị sự một đề nghị thực tế đủ để có thể xem xét. Trong khi đó, Hà Nội đã xây dựng phòng thủ, từng bước đưa các vấn đề quan trọng với Trung Quốc vào thế chờ đợi, nuôi dưỡng mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Australia một cách phô trương và cho phép công chúng bày tỏ tình cảm yêu nước trong khu vực chung quanh Đại sứ quán Trung Quốc.
Tuy nhiên, hiện nay có vẻ như các yếu tố của một thỏa thuận có thể chấp nhận đã ở trên bàn làm việc, và toàn bộ uy tín của cả hai bộ chinh trị đã dự phần vào. Chuyến viếng thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Bắc Kinh vào tháng Mười, và một lần nữa trong chuyến thăm của Tập Cận Bình, nhân vật rõ ràng sẽ thừa kế ở Trung Quốc tại Hà Nội trong tháng Mười hai, nhấn mạnh rằng các nhà đàm phán đã được hướng dẫn để thi hành “các nhận thức chung của lãnh đạo hai nước”.
Khi Trung Quốc đạt được khả năng quân sự để hỗ trợ các khẳng định sâu rộng của mình trong vùng Biển Đông, dường như một cuộc xung đột vũ trang là ngày càng có thể xảy ra, hoặc vì cố tình hoặc vì ngoài ý muốn. Cho đến nay, Bắc Kinh dường như không quan tâm đến một thỏa thuận nhằm dọn đường cho các nước ven biển đầu tư năng lực của họ trong việc khai thác chung về thuỷ sản và các nguồn năng lượng.
Và khi Hoa Kỳ từ bỏ sự tham dự ở Iraq và Afghanistan, sắp xếp của Washington nhằm can thiệp vào cuộc xung đột ngày càng trở nên rõ ràng. Nhưng hiện nay có những hy vọng rằng Việt Nam và Trung Quốc đang di chuyển theo hướng giải quyết ít nhất là một phần của vấn đề.
Nguồn: Asia Online

Không có nhận xét nào: